Hệ thống phương pháp nghiên
cứu
Việt Thanh, tham khảo từ giáo trình phương pháp nghiên cứu của Babbie
Sự hiểu biết của con người về thế giới được
thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau. Có người thông qua người khác truyền
đạt lại và biết, có người tự mình trực tiếp chứng kiến, trải nghiệm và biết, có
người chủ động tìm tòi nghiên cứu và biết. Có hai loại nhận thức, nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học. Nhận thức thông thường là những hoạt động
thu nhận, hiểu biết về thế giới xung quanh thông qua những hoạt động thường
xuyên hàng ngày của con người, nhận thức thông thường đem lại cho con người sự
hiểu biết bề ngoài, không bản chất về sự vật và hiện tượng vì vậy kết quả của
việc nhận thức thông thường thường không phản ánh đúng, đầy đủ về sự vật hiện
tượng thậm chí đôi khi phản ánh sai bản chất sự việc và hiện tượng. Tuy nhiên,
nhận thức thông thường đóng vai trò nền tảng, cơ sở cho nhận thức khoa học.
Nhận thức khoa học khác với nhận thức thông thường là nhận thức khoa học đi sâu
tìm hiểu về bản chất của sự vật hiện tượng. Kết quả nhận thức khoa học là những
kiến thức chính xác, đầy đủ và toàn diện hơn về bản chất của sự vật và hiện
tượng. Nhận thức khoa học khác với nhận thức thông thường ở chỗ nó có những đặc
điểm riêng của nó, đó là sự nhận thức có mục đích và tuân theo những quy tắc
nhất định.
Tuy nhiên sự
hiểu biết của con người đến đâu là đủ đến nay chưa có ai có thể trả lời được,
chỉ có biết ít biết nhiều chứ không có biết đủ. Nhận thức thông thường cũng như
nhận thức khoa học đều hướng đến nhận thức đúng bản chất sự vật, hiện tượng,
hiểu biết đúng quy luật của cuộc sống xã hội. Như vậy, có thể thấy không phải
anh biết bao nhiêu mà anh biết như thế nào mới là vấn đề đáng quan tâm. Vậy
nhận thức như thế nào, làm gì để đạt được mục tiêu trong nhận thức khoa học
chính là vấn đề liên quan đến phương pháp. Phương pháp nhận biết sự vật hiện
tượng, phương pháp khám phá ra những quy luật của tự nhiên và xã hội chính là
yếu tố quyết định trong việc nhận thức về thế giới của con người. Phương pháp
có ý nghĩa quan trọng, quyết định kết quả của quá trình nhận thức khoa học. Trong
khoa học xã hội, phương pháp càng có ý nghĩa quan trọng, xác định đúng đắn
phương pháp nghiên cứu và sử dụng phù hợp với từng đối tượng nghiên cứu là vấn
đề quyết định sự thành công của cuộc nghiên cứu. Vậy phương pháp nghiên cứu
trong khoa học xã hội bao gồm những phương pháp nào, nó hình thành trên cơ sở
nào, theo tác giả chúng ta cần tìm hiểu qua các nền tảng chung của khoa học.
Theo Babbie: Khoa học đôi khi được đặc trưng hóa bằng tính logic thực tế
(logico-empirical). Thuật ngữ này mang một thông điệp quan trọng: các thành
phần cơ bản của khoa học là tính logic và quan sát. Cả hai thành phần này là
tất yếu của khoa học và liên quan đến ba vấn đề của việc nghiên cứu trong khoa
học xã hội: Lý thuyết, thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu. trong đó, lý
thuyết khoa học giải quyết khía cạnh logic của khoa học - cung cấp những giải
thích có hệ thống - trong khi đó thu thập dữ liệu giải quyết khía cạnh quan
sát. Phân tích dữ liệu là hoạt động nghiên cứu phát hiện ra những quy luật
trong các cuộc quan sát và so sánh những gì được mong đợi một cách hợp lý với
những gì được quan sát trên thực tế. Với những nền tảng của khoa học xã hội như
trên đã cung cấp cho chúng ta cơ sở để có thể phân loại được phương pháp dùng
để nghiên cứu trong khoa học xã hội hiện nay. Có thể nói chưa có công trình nào
có thể thống kê đầy đủ tất cả các phương pháp nghiên cứu dùng trong khoa học xã
hội. Nhưng trên cơ sở quan điểm khoa học đó, có thể khái quát hóa, phân loại
phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội thành hai dạng phương pháp là các phương pháp thu thập dữ liệu (data
collection) và các phương pháp phân tích
dữ liệu (data analysis). Tổng hợp tất các phương pháp trong hai hệ loại như
vậy hình thành nên hệ thống phương nghiên cứu khoa học xã hội hiện nay.
1. Phương pháp
thu thập dữ diệu:
Các phương
pháp thu thập dữ liệu nằm trong các hình thức quan sát. Bởi như đã nói quan sát
chính là giải quyết vấn đề thu thập dữ liệu. Theo Babbie có năm hình thức quan
sát (cả định tính và định lượng) sau đây: Thực nghiệm (Experiments); nghiên cứu
khảo sát (Survey research); nghiên cứu thực tế định tính (Qualitative field
research); nghiên cứu kín (Unobtrusive research); nghiên cứu đánh giá
(Evaluation research). Trong các hình thức quan sát này chúng ta sẽ bắt gặp
nhiều phương pháp liên quan phục vụ cho việc thu thập dữ liệu trong nghiên cứu
khoa học xã hội.
1.1. Thực nghiệm:
Thực nghiệm
thông thường được cho là của khoa học vật lý. Có thể thấy, thực nghiệm có tính
kiểm soát cao nhất trong tất cả các phương pháp mà chúng ta sẽ kiểm tra. Hiểu
về thực nghiệm rất hữu ích để nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về tính logic
chung của nghiên cứu khoa học xã hội.
Phương pháp
thực nghiệm về cơ bản được tiến hành với hai bước. Thứ nhất là thực hiện hành
động và thứ hai quan sát kết quả của hành động đó. Các nhà nghiên cứu xã hội thường
chọn một nhóm các đối tượng để tác động vào chúng và quan sát kết quả của sự
tác động đó. Thực nghiệm thích hợp với các khái niệm và các vấn đề có giới hạn
tương đối và được định nghĩa rõ. Thực nghiệm đặc biệt phù hợp để kiểm tra các
giả thuyết bởi vì thực nghiệm tập trung làm rõ nguyên nhân. Nó cũng phù hợp với
mục đích giải thích hơn là miêu tả. Thực nghiệm cũng thường được áp dụng để
tiến hành nghiên cứu sự tương tác trong các nhóm nhỏ.
Chúng ta
thường nghĩ rằng thực nghiệm thì diễn ra trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, ngày
càng nhiều nhà nghiên cứu xã hội đã sử dụng trang Web như là công cụ để thực
hiện các cuộc thực nghiệm. Bởi vì các mẫu đại diện không nhất thiết ở trong hầu
hết các cuộc thực nghiệm, những người nghiên cứu có thể thường xuyên sử dụng số
người tự nguyện trả lời các câu hỏi trên trang Web.
1.2. Khảo sát:
Khảo sát là
một trong những phương pháp phổ biến nhất trong khoa học xã hội. Loại phương
pháp này liên quan đến việc thu thập dữ liệu bằng cách đặc câu hỏi cho mọi
người hoặc bằng bảng câu hỏi tự làm hoặc thông qua phỏng vấn, có thể được thực
hiện trực tiếp mặt đối mặt hoặc thông qua điện thoại.
Khảo sát là
một kỹ thuật nghiên cứu được sử dụng từ rất lâu. Ngày nay, khảo sát là một hình
mẫu thường xuyên được sử dụng để quan sát trong khoa học xã hội. Trong một khảo
sát tiêu biểu, người nghiên cứu phải chọn lựa một nhóm đối tượng khảo sát và
đưa chọ họ bảng câu hỏi đã được chuẩn hóa theo một tiêu chí nhất định.
Khảo sát phù
hợp cho các mục đích mô tả, giải thích và khám phá. Khảo sát chính thức được sử
dụng trong các cuộc nghiên cứu mà có những các nhân như là những đơn vị của
phân tích. Mặc dù, phương pháp này có thể được sử dụng cho các đơn vị của phân
tích khác như các nhóm, các mối tương tác hoặc những cá nhân đóng vai trò là
đối tượng phản ứng hoặc người cung cấp thông tin. Khảo sát có thể là phương
pháp tốt nhất cho các nhà nghiên cứu xã hội thích thú đối với việc thu thập
những dữ liệu gốc cho việc mô tả tình hình dân số quá rộng lớn đến nổi không
thể quan sát trực tiếp. Khảo sát cũng là dụng cụ tuyệt vời để đo lường thái độ,
định hướng của một khối dân số rộng lớn.
Các hình thức
thực hiện khảo sát bao gồm: Phỏng vấn bằng điện thoại không có hoặc có sự hổ
trợ của máy tính; khảo sát trực tuyến; phương pháp phân tích lần thứ hai: Là
một hình thức của việc nghiên cứu trong đó những dữ liệu được thu thập và xử lý
bởi một người nghiên cứu được phân tích lại bởi một người khác.
1.3 Nghiên cứu thực tế định tính:
Nghiên cứu
thực tế định tính hình thức tự nghiên nhất của việc thu thập dữ liệu được sử
dụng bởi các nhà khoa học xã hội: Quan sát trực tiếp các hiện tượng xã hội
trong bối cảnh tự nhiên của nó. Như bạn thấy, một vài nhà nghiên cứu đi xa hơn không
chỉ là quan sát để tham gia vào những gì họ đang nghiên cứu, bởi vì họ muốn
quan sát gần gũi hơn và hiểu biết sâu hơn về nó.
Về mặt nghĩa,
chúng ta làm nghiên cứu thực tế bất cứ khi nào chúng ta quan sát hoặc tham gia
vào các hành vi xã hội và cố gắng hiểu chúng có thể là trong lớp học, trong
phòng đợi của bác sĩ, hoặc trên máy bay. Bất cứ khi nào chúng ta tường thuật sự
quan sát của chúng ta với người khác, chúng ta đang thực hiện báo cáo về những
nỗ lực nghiên cứu thực tế của chúng ta. Nghiên cứu thực tế sản sinh ra dữ liệu
định tính: Quan sát không dễ định lượng hóa thành con số. Trong nghiên cứu thực
tế định tính chú ý đến các vai trò khác nhau của người quan sát; mối quan hệ
với đối tượng khảo sát.
Một số mẫu
nghiên cứu thực tế định tính:
Mẫu tự nhiên. Một cách tiếp cận của nghiên cứu thực tế định tính
được dựa trên giả định rằng thực tế khách quan tồn tại và có thể được quan sát
và được tường thuật một cách chính xác.
Enothnomethodology: Cách tiếp cận này nghiên cứu về cuộc sống
xã hội, tập trung khám phá những điều ẩn chứa bên trong nó, thường xuyên là
những giả định hoặc những thỏa thuận ngầm; phương pháp này liên quan đến việc
khai phá những giả định hoặc thỏa thuận như cách thức để chứng minh sự tồn tại
của chúng.
Thuyết nền tảng: Phương pháp tiếp cận quy nạp đối với việc
nghiên cứu cuộc sống xã hội để xây dựng lý thuyết từ việc so sánh thường xuyên những
cuộc quan sát mở rộng. Điều này khác với việc kiểm tra giả thuyết mà trong đó
lý thuyết dùng để xây dựng giả thuyết được kiểm tra thông qua quan sát. Những
quy tắc để thực hiện lý thuyết nền tảng: Suy nghĩ trong mối quan hệ so sánh với
nhau; chấp nhận những quan điểm đa dạng; quay lại các bước một cách thường
xuyên; duy trì một thái độ nghi ngờ; tuân theo những quy trình nghiên cứu.
Nghiên cứu tình huống (case study): tập trung vào một tính huống đơn lẽ của các
hiện tưởng xã hội như làng mạc, gia đình, nhóm phạm tội. Tình huống vẫn còn
nhiều tranh cải, chưa thống nhất. Có người cho rằng tình huống có lẽ nên là một
giai đoạn thời gian hơn là một nhóm người đặc biệt nào đó. Những hạn chế của
việc chú ý đến những ví dụ đặc biệt của một cái gì đó là đặc tính tất yếu của
nghiên cứu tình huống. Những cuộc nghiên cứu tình huống có thể tạo nền tảng cho
việc phát triển những lý thuyết có tính khái quát hơn. Phương pháp nghiên cứu
tình huống mở rộng có mục đích khám phá những thiếu sót và bổ sung, hoàn thiện
những lý thuyết xã hội đang tồn tại.
Trong
khi những nhà nghiên cứu theo trường phái nền tảng tiếp cận vấn đề nghiên cứu
với lúc ban đầu là chưa có khái niệm về những gì họ sẽ tìm trong nghiên cứu,
Burawoy đề nghị theo hướng ngược lại: Có gắng hiểu rõ những gì sẽ tìm trong
nghiên cứu trong khả năng của mình càng chắc càng tốt trước khi bước vào nghiên
cứu. Burawoy xem phương pháp tình huống được mở rộng như một cách thức để dựng
lại hoặc cải tiến lý thuyết thay vì ủng hộ hoặc chống đối. Do đó ông đã tìm tất
cả các cách thức mà trong đó quan sát mâu thuẫn với những lý thuyết đang tồn
tại và những gì mà ông ấy gọi là những khoảng lặng và khoảng trống lý thuyết.
Định hướng này đối với nhà nghiên cứu thực tế định tính ngụ ý rằng biết trước
thật sự là điều tất yếu đối với Burawoy trong khi đó những nhà lý thuyết nền
tảng lo lắng việc biết những gì người khác đã kết luận có thể ảnh hưởng đến
việc quan sát và lý thuyết của họ.
Dân tộc học tổ chức:
Là một kỹ thuật nghiên
cứu, trong đó những kinh nghiệm riêng của các cá nhân được sử dụng để khám phá
những mối quan hệ quyền uy và những đặc tính khác của các tổ chức mà các cá
nhân hoạt động ở trong tổ chức đó. Các nhà dân tộc học tổ chức bắt đầu bằng
những kinh nghiệm cá nhân, tiến đến khám phá các quan hệ quyền uy tổ chức mà
hình thành và điều khiển những kinh nghiệm đó. Trong quá trình này, người
nghiên cứu có thể khai phá những khía cạnh của xã hội mà bị bỏ lỡ bởi các cuộc
điều tra bắt đầu với những mục đích chính thức của tổ chức. Cách tiếp cận này
liên kết cấp độ vi mô của những kinh nghiệp cá nhân hàng ngày với mức độ vĩ mô
của các tổ chức.
Nghiên cứu qua hoạt động tham gia:
Một cách tiếp cận với
nghiên cứu xã hội mà trong đó những người được nghiên cứu được đưa ra ý kiến về
mục đích và các quy trình của việc nghiên cứu.
1.4 Nghiên cứu kín (Unobtrusive Research): Phương pháp nghiên cứu các hành vi xã hội
mà không tác động lên nó. Những phương pháp này có thể là định tịnh hoặc định
lượng.
Ba
hình thức thu thập dữ liệu kín sử dụng dữ liệu có sẵn xung quanh chúng ta. Ví
dụ, phân tích nội dung là một phương pháp thu thập dữ liệu xã hội thông qua
việc xác định và đánh giá những thứ do con người tạo ra như sách, bài hát, bài
thuyết trình, tranh. Không làm bất kỳ một cuộc tiếp xúc cá nhân nào với con
người, bạn có thể sử dụng phương pháp này để kiểm tra, xem xét hàng loạt các sự
kiện xã hội. Những tài liệu lịch sử là nguồn có giá trị cho phân tích khoa học
xã hội.
Phân tích nội dung: Là nghiên cứu về các giao tiếp đã được
thiết lập của con người. Trong số hình thức thích hợp cho việc nghiên cứu là
sách, báo, web, bài thơ, tạp chí, bài hát, tranh ảnh, các bài thuyết trình,
thư, tin nhắn emai, các thông báo trên Internet, luật và hiến pháp cũng như bất
kỳ thành phần nào hoặc các bộ sưu tập của những cái đã đề cập ở trên.
Trong
phân tích nội dung cần phải chú ý đến việc tạo mẫu. Chúng ta có thể áp dụng
những kỹ thuật tạo mẫu thông thường được bàn ở chương 7. Chúng ta có thể chọn
một mẫu ngẫu nghiên hoặc mẩu có hệ thống các tiểu thuyết gia của Mỹ và Pháp…
Tạo
mẫu phân tầng cũng thích hợp cho phân tích nội dung. Để phân tích chính sách
biên tập của tạp chí Mỹ chẳng hạn chúng ta có thể đầu tiên nhóm tất cả tạp chi
theo khu vực của đất nước hoặc theo kích cỡ của cộng đồng trong đó tạp chí được
xuất bản hoặc quay vòng tuần hoàn. Sau đó, chúng ta có thể chọn mẫu ngẫu nhiên
phân tằng hoặc mẫu hệ thống các tạp chí để phân tích.
Tạo
mẫu nhóm cũng phù hợp với phân tích nội dung. Thực sự, nếu những bài báo biên
tập cá nhân là những đơn vị phân tích của chúng ta thì sau đó việc chọn các tạp
chí trong giai đoạn đầu tiên của việc tạo mẫu là mẫu nhóm. Trong một phân tích
các bài nói chuyện chính trị, chúng ta có thể bắt đầu bằng việc chọn mẫu các
nhà chính trị; mỗi nhà chính trị có thể sẽ trình bày một nhóm các bài nói về
chính trị.
Cần
phải nhắc lại rằng việc tạo mẫu chưa cần kết thúc khi chúng ta tìm được đơn vị
phân tích. Nếu các tiểu thuyết là đơn vị phân tích thì chúng ta có thể chọn một
mẫu về các nhà tiểu thuyết và một nhóm phụ các đoạn văn trong mỗi cuốn tiểu
thuyết. Sau đó, chúng ta sẽ phân tích nội dung của các đoạn văn vì mục đích mô
tả chính các cuốn tiểu thuyết đó.
Về việc mã hóa trong phân tích nội dung: Phân tích nội dung một cách tất yếu là hoạt
động mã hóa. Mã hóa là quá trình chuyển đổi các tài liệu thô sang một hình thức
được chuẩn hóa. Trong phân tích nội dung, các liên lạc – bằng các hình thức
nói, viết hoặc bàng hình thức khác – được mã hóa hoặc được phân loại theo một
vài khung khái niệm. Như vậy, ví dụ các bài báo biên tập trong tạp chí có thể
được mã hóa theo dạng thức là tự do hoặc bảo thủ. Các tiểu thuyết thì lãng mạn
hay không… Nhớ rằng vì những thuật ngữ như trên phụ thuộc nhiều vào sự phân
tích nên nhà nghiên cứu phải xác định rõ ràng các định nghĩa.
Mã
hóa trong phân tích nội dung liên quan đến tính logic của khái niệm hóa và hoạt
động hóa. Có hai hình thức mã hóa là nội dung rõ ràng liên quan đến thuật ngữ
được biểu hiện trong giao tiếp và nội dung ẩn liên quan đến nghĩa của giao tiếp.
Phân tích dữ liệu định tính:
Không phải tất cả phân
tích nội dung dẫn đến việc định lượng hóa được. Đôi khi một đánh giá định tính
về các tài liệu là thích hợp nhất.
Điểm
mạnh và yếu của phân tích nội dung: Điểm thuận lợi nhất của phân tích nội dung
là tính kinh tế của nó cả về thời gian và tiền bạc.Không có đòi hỏi nào cho các
nhân viên nghiên cứu; không có dụng cụ đặc biệt nào được yêu cầu. miễn là bạn
có thể tiếp cận được các tài liệu được mã hóa, bạn có thể thực hiện phân tích
nội dung. Phân tích nội dung cũng có thuận lợi trong việc cho phép sửa các lỗi.
Nếu bạn khám phá ra rằng bạn đã làm hỏng một cuộc khảo sát hoặc một cuộc thực
nghiệm bạn có thể được yêu cầu lập lại toàn bộ dự án nghiên cứu với tất cả
những chi phí về thời gian và tiền bạc thực hiện của nó. Nếu bạn làm hỏng
nghiên cứu thực tế của bạn thì có lẽ không thể làm lại dự án; các sự kiện theo
cuộc nghiên cứu có thể không tồn tại nữa. Trong phân tích nội dung, thường
xuyên dễ dàng lập lại một phần của nghiên cứu hơn các phương pháp nghiên cứu
khác. Hơn nữa, bạn có thể được yêu cầu mã hóa lại chí một phần dữ liệu của bạn
hơn là tất cả dự liệu. Thuận lợi thứ ba của phân tích nội dung là nó cho phép
cuộc nghiên cứu có thể kéo dài một thời gian dài. Cuối cùng phân tích nội dung
có các lợi thế của tất cả biện pháp nghiên cứu kín, chính xác là phân tích nội
dung hiếm khi có bất kỳ tác động nào lên các đối tượng được nghiên cứu. Bởi vì
các tiểu thuyết đã được viết rồi, tranh được vẽ rồi, các bài nói đã được trình
bày phân tích nội dung không tác động lên chúng.
1.4.2 Phân tích thống kê hiện hành: Phân tích số liệu thống kê hiện hành giới
thiệu một phương pháp khác nghiên cứu về con người mà không phải nói chuyện
hoặc tiếp xúc với họ. Các chính phủ và một loạt tổ chức tư nhân thường xuyên
thực hiện hàng loạt cuộc thống kê các dữ liệu mà chúng ta có thể sử dụng với
một ít mà không cần bổ sung thêm để trả lời hợp lý những câu hỏi được đặt ra.
Các nguồn của thống kê hiện hành rất đa dạng, phong phú.
1.4.3 Nghiên cứu lịch sử và so sánh: Phương pháp nghiên
cứu nhờ so sánh mà vạch ra cái chung và cái đặc thù trong các hiện tượng lịch
sử, trình độ phát triển và xu hướng phát triển của các hiện tượng ấy. Các hình
thức của PPSS - LS gồm: phương pháp đối chiếu (vạch ra bản tính của các khách
thể khác loại); so sánh loại hình lịch sử (giải thích sự giống nhau của các
hiện tượng khác nhau về nguồn gốc lịch sử); so sánh nguồn gốc phát sinh (giải
thích sự giống nhau của các hiện tượng với tính cách là kết quả của sự tương tự
về nguồn gốc phát sinh); so sánh trong đó ghi lại ảnh hưởng lẫn nhau của các
hiện tượng khác nhau. PPSS - LS được công nhận rộng rãi từ thế kỉ 19 và được áp
dụng trong các khoa học khác nhau như sử học,ngôn ngữ học, dân tộc học, luật học, vv. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã sử dụng phương pháp này để nghiên
cứu các hình thái kinh tế - xã
hội, các kiểu kiến trúc kinh tế và chính trị khác nhau của cùng một hình thái,
các phong trào xã hội và các hệ
tư tưởng.
Trong ngôn ngữ, PPSS - LS nhằm phát hiện những mối quan hệ họ hàng
giữa các ngôn ngữ và nghiên cứu sự phát triển của chúng. Dựa trên các cứ liệu
ngôn ngữ đồng đại, nhờ PPSS - LS, người ta có thể phục nguyên được các trạng
thái của các ngôn ngữ cụ thể ở những giai đoạn trước khi chưa có chữ viết,
những quá trình biến đổi của các ngôn ngữ, từ một ngôn ngữ gốc, giả định, xây
dựng nên các giả thuyết về cội nguồn ngôn ngữ cũng như xác lập các họ ngôn ngữ
và tiến trình phát triển của từng ngôn ngữ, từng hiện tượng ngôn ngữ cụ thể.
PPSS - LS được sử dụng có kết quả vào việc nghiên cứu các ngôn ngữ Ấn - Âu và đã thúc đẩy sự phát triển của ngành
ngôn ngữ học.
Có rất nhiều tài liệu có sẵn trong nghiên cứu lịch sử. Nguồn tài
liệu của nghiên cứu lịch sử so sánh rất đa dạng phong phú tùy thuộc vào đối
tượng nghiên cứu. Vì dụ, để nghiên cứu về quá trình di cư của người Phần Lan
đến Mỹ thì nguồn tài liệu có thể là những bức thư của những người di cư Phần
Lan đến Mỹ gửi về cho gia đình họ, người khác thì nghiên cứu nhật ký của họ;
hoặc khi nghiên cứu về một tổ chức nào đó có thể nghiên cứu các bài nói chuyện
của lãnh đạo tổ chức, các quy tắc, các chính sách của tổ chức.
Tuy nhiên, bất kỳ nguồn nào chúng ta sử dụng cần chú ý trình tự
hai vấn đề sau: (1) Như chúng ta thấy trong trường hợp là những tài liệu thống
kê hiện hành chúng ta không thể tin ngày vào độ chính xác của nó – chính thức
hoặc không chính thức; cái đầu tiên hay cái thứ hai. Việc kiểm tra nằm trong
tính lặp lại. Trong trường hợp nghiên cứu thuộc về lịch sử điều đó có nghĩa là
sự bổ sung. Nếu vài nguồn khác đều dẫn đến kết quả tương tự, bạn có thể có lý
do tin tưởng vào sự chính xác của tài liệu.
Cùng với đó, bạn cần có những thái độ khác nhau về nguồn tài liệu
của bạn. Nếu tất cả tài liệu của bạn về sự phát triển của một phong trào chính
trị được lấy ra từ phong trào đó, bạn không thể thu được những quan điểm khác
nhau về nó. Những cuốn nhật ký của tầng lớp thượng lưu thời trung cổ có thể
không đưa cho bạn một cái nhìn chính xác về cuộc sống nói chung trong suốt quãng
thời gian đó. Bất cứ nơi nào có thể, thu được tài liệu từ các nguồn khác nhau
sẽ cho chúng ta những quan điểm khác nhau về vấn đề cần nghiên cứu, như vậy sẽ
chính xác hơn, toàn diện hơn.
1.5. Nghiên cứu đánh giá:
Nghiên
cứu đánh giá, xem xét những khía cạnh khác đang phát triển nhanh chóng trong
khoa học xã hội, bao gồm ứng dụng các kiểu thực nghiệm hoặc tương tự như thực
nghiệm để kiểm tra các sự can thiệp xã hội trong cuộc sống thực tế. Bạn có thể
sử dụng nghiên cứu đánh giá để kiểm tra tính hiệu quả của chương trình tái hòa
nhập sau khi nghiện thuốc hoặc tính khả thi của việc xây dựng căn tin mới trong
trường học.
2. Phương pháp phân tích dữ
liệu:
Trong phần này của cuốn sách, chúng ta sẽ thảo luận phân tích về
các dữ liệu nghiên cứu xã hội và chúng ta sẽ xem xét các bước mà tách rời quan
sát khỏi việc báo cáo cuối cùng về những gì tìm được. Tiếp theo, chúng ta sẽ
xem xét nhiều vấn đề cơ bản trong nghiên cứu xã hội áp dụng cả hai loại dữ liệu
định tính và định lượng. Tuy nhiên, phân tích định tính và phân tích định lượng
khá khác nhau và sẽ được bàn luận riêng.
Những khó khăn hoặc thuận lợi của việc xây dựng những phân tích dữ
liệu chất lượng cao như được thể hiện như sau: 1 là dễ nhất để thực hiện và 4
là khó nhất.
(1) Tương đối dễ dàng để thực hiện một vài quan sát về cuộc sống
xã hội và dự đoán về ý ngĩa của những gì được quan sát. Thật không may mắn,
những dự đoán như vậy không đòng góp nhiều vào sự hiểu biết cuộc sống xã hội
của chúng ta.
(2) Thực hiện những phân tích dữ liệu đơn giản thì khó khăn hơn
bởi vì nó yêu cầu ít nhất một vài kỹ năng thống kê ở cấp thấp. Tuy nhiên, rất
thường xuyên chúng ta phải đối mắt với những phân tích dữ liệu thống ke mà thật
sự không nhiều ý nghĩa. Những thuật ngữ như quantiphrenia và chủ nghĩa khoa học
thỉnh thoảng được sử dụng để bắt chước khoa học vật lý mà không có ý nghĩa thật
sự nào.
(3) Thực hiện những phân tích dữ liệu định lượng phức pháp thật sự
có ý nghĩa yêu cầu nhiều sự suy nghĩ và trí tưởng tượng. Tuy nhiên, nó không
cần thiết những thống kê có sức mạnh lớn như trong công việc của Paul
Lazarsfeld và Sam Stouffer chỉ ra. Những gì được đặt ra là sự sẵn sàng để
nghiên cứu và khả năng để nhận ra những quy luật có ý nghĩa trong số các biến
số. Mặc dù, nhiều kỹ thuật được hình thành cho phân tích định tính là những
công cụ có sức mạnh để sử dụng trong việc nghiên cứu, nhưng những khám phá có
sức mạnh thật sự chưa bao giờ được sinh ra bởi việc sử dụng một cách thuộc lòng những kỹ thuật.
(4) Nhiệm vụ khó khăn nhất cho các nhà nghiên cứu xã hội nằm ở
việc sản sinh ra những phân tích có sức mạnh về dữ liệu định tính. Điều này yêu
cầu sự cống hiến và khả năng như đã đề cập ở (3); tuy nhiên phân tích định tính
tùy thuộc nhiều hơn vào kiến thức, sự hiểu biết cá nhân của nhà nghiên cứu hơn
là tùy thuộc vào công cụ có sẵn để hổ trợ phân tích. Phân tích định tính ngày
nay vẫn là một nghệ thuật như khoa học.
2.1 Phân tích dữ liệu định
tính.
Chúng ta bắt đầu bằng việc xem xét một vài nền tàng lý thuyết cho
cách tiếp cận này. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét một vài quy trình khái niệm mà
bạn nên sử dụng trong việc tìm kiếm ý nghĩa trong số các dữ liệu định tính. Tôi
sẽ minh hoạ một vài chương trình máy tính mà được tạo ra một cách đặc trưng cho
phân tích dữ liệu định tính. Gần kết luận của chương này, chúng ta sẽ nghiên
cứu một vài nổ lực để tạo ra những tiêu chuẩn cho việc đánh giá chất lượng của
nghiên cứu định tính.
2.2 Phân tích dữ liệu định
lượng:
Chúng ta sẽ bắt đầu với
việc nghiên cứu những phương pháp phân tích và thể hiện dữ liệu liên quan đến
một biến số đơn. Sau đó chúng ta sẽ chuyển đến mối quan hệ giữa hai biến số và
học cách làm thế nào để xây dựng và đọc những bảng phần trăm đơn giản. Chương
này kết thúc với việc xem trước phân tích đa biến và một cuộc thảo luận về
những chẩn đoán xã hội học cùng với xem xét những tiêu chuẩn về mặt đạo đức.
2.3 Mô tả chi tiết (Elaboration
Model)
Chúng ta sẽ xem xét sâu hơn về phân tích đa biến. Chương 15 cũng
trình bày tính logic của việc phân tích thông thường thông qua việc sử dụng các
bảng phần trăm. Chúng ta sẽ áp dụng tính logic tương tự khi chúng ta sử dung
các kỹ thuật thống kê khác trong chương 16. Kiểu logic này được phát triển cho
việc sử dụng với dữ liệu định lượng nhưng tôi nghĩ bạn sẽ thấy nó cũng hợp lý
như thế nào cho việc lập luận với những dữ liệu định tính.
2.4 Phân tích thống kê
(Statistical Analyses)
Thường xuyên được sử dụng hơn trong nghiên cứu khoa học xã hội,
bao gồm tổng quan về một vài phương pháp tiên tiến hơn về phân tích đa biến.
thay vì chỉ bày cho bạn biết làm thế nào để tính toán thống kê với các phương
pháp này, tôi đã cố gắng đặt chúng vào trong ngữ cảnh của các cuộc thảo luận về
logic và lý thuyết trước đó. Vì thế, bạn nên sẽ rời khỏi chương này biết khi
bào sử dụng các đo lường thống kê khác nhau cũng như làm thế nào để đếm chúng.