Bài đăng ký dự hội thảo quốc tế ĐNÁ học tại Salaya, Thái Lan 1-2.XII.2011, tóm tắt từ luận văn TS do GS Ngô Đức Thịnh hướng dẫn.
Local knowledge is promoted by World Bank as a useful lever for development in a Southeast Asian country like Vietnam. My PhD thesis looks at folklore knowledge in the U Minh Thượng area or a part of the Mekong estuary in an attempt to understand how that specific environment shaped the culture of the Vietnamese migrants since the 18th century and how that memory is exploited in local life in the 21th century. The historical knowledge is embedded in oral comedy, rituals and material culture and has not been seen as the Knowledge defined by colonisation, modernisation and official education. But it has successfully maintained life and development in this difficult area for the last 300 years. That valuable memory should be recorded into Knowledge and reflected in policy-making, urbanisation or alteration of landscape, as well as agricultural development and demographic processes.
TÌM HIỂU TRI THỨC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG U MINH QUA CÁCH ỨNG XỬ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
TRONG ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT
- TS. Nguyễn Diệp Mai -
U Minh là vùng đất rừng trầm thủy nằm ở vị trí Tây Nam - Việt Nam có lịch sử văn hóa - dân cư - dân tộc đặc thù mang dấu ấn của vùng đất trẻ được khai mở sau cùng của Việt Nam. Tri thức dân gian (TTDG) của người Việt vùng U Minh là một bộ phận của văn hóa dân gian(1) (VHDG) chủ yếu là sự hiểu biết về môi trường tự nhiên và cách thức ứng dụng kinh nghiệm đó vào đời sống thực tế. Kinh nghiệm được đúc kết, trao truyền và vận dụng như thế nào để có thể phục vụ cho nhu cầu ăn - ở - mặc - đi lại và tồn tại ở vùng đất U Minh. Mục tiêu của bài viết là góp một phần nhỏ để giới thiệu với bạn đọc quan tâm tìm hiểu kho tàng tri thức của người dân vùng U Minh.
1. Môi trường sống đặc biệt làm biến đổi thái độ ứng xử với tự nhiên của người Việt vùng U Minh
Trong tiến trình khai thác vùng đất Nam Bộ, người Việt đã mang theo văn hóa truyền thống vùng châu thổ sông Hồng của mình đến vùng đất mới. Cảnh quan và điều kiện MTTN ở vùng đất mới tác động mạnh mẽ đến hoạt động sống của họ. Để tồn tại được, họ phải thích ứng và tìm ra phương thức ứng xử phù hợp với môi trường sống mới ấy. Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên tồn tại gắn bó hữu cơ trong một thể thống nhất, có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, tốt và xấu trong suốt quá trình vận động và phát triển.
“U Minh, Rạch Giá thị hóa sơn trường
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua”
(Ca dao)
Xét về bối cảnh là cộng đồng dân cư vùng U Minh hình thành trên một vùng đất xuất phát từ MTTN hoang dã – cảnh quan nguyên thủy, dần trở thành cảnh quan có hoạt động của con người - cảnh quan văn hóa. Người dân nơi đây chủ động thiết lập mối quan hệ với MTTN thông qua việc khám phá, khai thác và biến đổi để thích ứng. Tư duy đó được hình thành từ thời điểm đầu tiên lưu dân đặt chân lên vùng đất hoang dã và sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên đến khi họ tích lũy được vốn tri thức đủ để khai thác tài nguyên thiên nhiên (TNTN) phục vụ cho đời sống vật chất (ĐSVC) của mình. Kinh nghiệm để tồn tại và phát triển của thế hệ lưu dân đầu tiên tích lũy được bảo tồn, lưu truyền cho các thế hệ nối tiếp và được xem là kho tàng tri thức của người dân địa phương.
Vùng đất U Minh chằng chịt sông nước, rừng rậm, đồng trũng…đã tạo thành sắc thái văn hóa sông nước rất đặc thù và sắc thái này thể hiện rất rõ trong cách ứng xử với MTTN của họ. Để có thể sinh sống, tồn tại và phát triển trong MTTN khác biệt như vùng U Minh, lưu dân người Việt phải làm mọi cách để đáp ứng được bốn nhu cầu cơ bản: ăn - ở - mặc – đi lại. Muốn làm được điều này họ cần phải khám phá, thích ứng với thiên nhiên, khai thác TNTN. Trong suốt quá trình đó họ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vận dụng vào hoạt động đời sống hàng ngày. Từ hiểu biết về bản thân con người, họ đã vận dụng vào điều kiện tự nhiên của môi trường sống mới để bản đảm cho cơ thể có thể thích ứng và phát triển khỏe mạnh. Đối với vùng Nam Bộ nói chung và U Minh nói riêng, do điều kiện là vùng đất mới được khai mở từ MTTN hoang dã nên con người cần liên kết với nhau để cùng tồn tại. Chính vì vậy, song song với quá trình khai thác, cộng đồng người sinh sống trong MTTN đó hình thành mối quan hệ xã hội nhằm quản lý nhau để cùng khai thác, hưởng lợi và bảo tồn nguồn lợi thiên nhiên. Trong việc khai thác TNTN ở vùng U Minh mối quan hệ ứng xử với tự nhiên và cách thức quản lý cộng đồng thể hiện rất rõ. Những hoạt động đó chính là những giá trị văn hóa do con người sáng tạo và đó cũng chính là nguồn gốc hình thành nên kho tàng TTDG của người Việt vùng U Minh. Vì vậy có thể xem ứng xử với MTTN ở vùng U Minh là hình thức biểu hiện giá trị văn hóa được người Việt tích lũy lưu truyền qua nhiều thế hệ, trở thành nếp sống của họ.
Trong suốt quá trình khám phá và chinh phục, người dân nơi đây vẫn phải chịu sự tác động ngược chiều của thiên nhiên, hứng chịu tác hại do hành động khai thác quá mức nguồn TNTN, cố tình thay đổi qui trình vận động và phát triển của tự nhiên. Đó chính là sự tương tác không thể tách rời giữa con người và thiên nhiên mà trong đó con người luôn đóng vai trò chủ động. Kinh nghiệm về môi trường sống được tích lũy trong suốt thời gian hơn 300 năm định cư tại vùng đất U Minh dài đã được ứng dụng vào hoạt động cụ thể trong đời sống vật chất. Trong quá trình đó tri thức và tính cách của người Việt vùng U Minh được hình thành. Đó chính là sản phẩm văn hóa do người Việt sáng tạo ra trên nền tảng văn hóa truyền thống của mình ở vùng đất mới.
2. Quá trình hình thành hệ thống tri thức dân gian của người Việt ở vùng U Minh
Cộng đồng dân cư trên vùng đất U Minh được hình thành qua một quá trình cộng cư đấu tranh với thiên nhiên lâu dài để tồn tại: “Trong sách Le Royaume du Cambodge của J.Moura (xuất bản Pari 1883) đã khái quát đặc tính của cư dân sống ở vùng đất mới: “Lưu dân Việt Nam tha phương cầu thực đến đâu cũng giữ tình máu mủ đồng bào, quần tụ, tương trợ lẫn nhau, sống thành làng mạc” [42, tr.111]. Vấn đề dân tộc bao giờ cũng là vấn đề xã hội vừa phức tạp vừa phong phú. Người Việt, người Hoa(1), người Khmer và người Mã Lai(2), khi thì ở lẫn lộn với nhau, khi thì ở riêng biệt. Do chính sách cai trị của nhà Nguyễn với phần đất mới này cũng còn lỏng lẻo, không gò bó vào khuôn khổ nhất định để cho mọi thành phần tự do phát triển nên hầu như ít có sự đối kháng về văn hóa cũng như lợi ích xã hội giữa 3 dân tộc. Quá trình hình thành hệ thống dân cư ở vùng U Minh cũng là quá trình cùng chinh phục thiên nhiên để tồn tại. Họ phải trả giá cho sự nhận thức về thiên nhiên của mình bằng chính cuộc sống của họ. Vì vậy, mặc dù còn xa lạ với hoàn cảnh tự nhiên nhưng lưu dân người Việt sớm hòa nhập, định hình cuộc sống, phải "phá sơn lâm, đâm hà bá". Muốn tồn tại ở đây họ phải đoàn kết tương trợ lẫn nhau, kết hợp với người Khmer và Hoa cộng cư để tồn tại và phát triển. Trong quá trình từ lúc đặt chân đến khai phá và cư trú trên vùng đất này cả người Việt, người Khmer và người Hoa đều “học hỏi” lẫn nhau để sáng tạo ra cách thức thích ứng với vùng đất U Minh. Qua các nguồn tài liệu cho thấy không có sự phân biệt “độc quyền” về nghề nghiệp, hoạt động sinh hoạt tinh thần riêng biệt của từng dân tộc trên vùng đất U Minh. Sự hòa đồng về văn hóa thể hiện rất rõ.
Nhu cầu ăn để tồn tại chủ yếu là kinh nghiệm khai thác nguồn thực phẩm tự nhiên, cách thức chế biến các món ăn, sự thích ứng với điều kiện tự nhiên để tạo ra cái ăn và mối quan hệ cộng đồng qua việc ăn uống. Trải qua nhiều thế hệ người Việt vùng U Minh đúc kết thành kinh nghiệm trong việc làm sao để tạo ra được cái ăn theo nhu cầu mà vẫn phù hợp với điều kiện môi trường sống. Tri thức đó ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày cụ thể trong từng món ăn, từng gia đình, từng cụm dân cư tạo thành nét riêng trong văn hóa ăn uống của một vùng. Việc tạo ra cái ăn đã minh chứng rõ ràng nhất về cách ứng xử của con người với thiên nhiên. Ẩm thực vùng U Minh là một phần của kho tàng TTDG.
Tính thích ứng với MTTN của trang phục, tính thẩm mỹ về trang phục và sự tiếp nhận cái mới trong cách mặc chính là nhu cầu mặc của người dân địa phương. Mặc là nhu cầu dễ tiếp nhận cái mới, dễ biến đổi nhất so với các nhu cầu vật chất khác. Do tính cách phóng khoáng, ưa tiện dụng, không thích kiểu cách nên nhu cầu mặc ở vùng U Minh tương đối đơn giản, không bức thiết như các nhu cầu vật chất khác. Cách mặc của người Việt vùng U Minh cơ bản giống người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ nhưng đã được cải biên phần lớn từ kiểu trang phục 4 mùa thành loại trang phục mùa hè duy nhất và nhanh chóng biến đổi theo thị hiếu thời đại. Nguyên vật liệu để tạo ra trang phục hầu như không sản xuất ở vùng U Minh nên vấn đề tìm nguyên vật liệu để tạo trang phục ít được quan tâm.
Ở như thế nào, ở nơi đâu, kiến trúc nhà ra sao để thích ứng được với MTTN của nơi cư trú và khai thác tài nguyên phục vụ cho việc tạo dựng nơi ở chính là vấn đề cơ bản của nhu cầu ở. Xét ở góc độ địa lý tự nhiên, vùng U Minh từ thế kỷ XVII – XIX, trải rộng gần như bao trùm cả Tây Nam Bộ cùng với hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt đã tạo nên một sắc thái kiến trúc nhà ở mang đặc thù của sông nước nhiều hơn yếu tố đồng bằng. Hoạt động khai thác TNTN để phục vụ cho nhu cầu xây cất nhà cửa là vấn đề liên quan mật thiết đến việc làm biến đổi hệ sinh thái của vùng U Minh. Khai thác thế nào, ở đâu, lúc nào và bảo vệ nguồn lợi này ra sao là kho tàng tri thức được tích lũy đúc kết qua nhiều thế hệ. Và việc vận dụng tri thức đó trong đời sống thực tế có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống hiện nay.
Đi lại vùng U Minh chủ yếu là đường thủy nên việc hiểu biết đặc điểm địa hình của mạng lưới sông nước để tạo ra phương tiện đi lại, vận dụng và sáng tạo các phương thức di chuyển thích nghi với địa hình là vấn đề cốt lõi của nhu cầu đi lại. Lưu dân đến vùng U Minh đã sớm biết vận dụng và sáng tạo những loại phương tiện phù hợp với địa hình để phục vụ ĐSVC. Nhiều loại hình ghe, xuồng mới được họ tiếp tục cải biên, sáng chế từ việc tiếp nhận sản phẩm mới của khoa học kỹ thuật hiện đại đặc biệt như chiếc xuồng ba lá và chiếc vỏ tắc ráng.
Trong quá trình lịch sử hình thành dân cư - dân tộc tại vùng U Minh, người Việt đã tạo dựng kho tàng TTDG riêng cho mình để lưu truyền phục vụ cho chính cuộc sống của mình. Kho tàng tri thức đó được xây dựng trên cơ sở giải quyết 3 mối quan hệ:
- Giữa vốn tri thức truyền thống mang theo trong tiềm thức với MTTN và điều kiện xã hội trên vùng đất mới.
- Giữa vốn tri thức mang đặc thù văn hóa tộc người Việt với vốn tri thức mang đặc thù văn hóa của 2 tộc người Khmer, Hoa cùng cộng cư.
- Giữa tri thức truyền thống tại địa phương với tri thức hiện đại.
Như người Việt trên các vùng Nam bộ khác, người Việt vùng U Minh giai đoạn đầu sống dựa vào nguồn lợi thiên nhiên nhưng không phụ thuộc hoàn toàn. Họ khai thác tài nguyên và ứng xử với MTTN ở vị thế là người có đủ tri thức để sống hòa đồng cùng thiên nhiên và khai thác nguồn tài nguyên để tồn tại và phát triển. Họ sử dụng hiểu biết của mình về thiên nhiên để tìm ra những điều kiện thuận lợi hoặc tác động vào MTTN theo hướng có lợi cho mình. Vốn hiểu biết của họ được đúc kết và trả giá bằng mồ hôi, xương máu, sức lao động của nhiều thế hệ, qua mỗi thế hệ nó được ứng dụng và biến đổi theo nhận thức và khả năng của người tiếp nhận. Vốn hiểu biết đó luôn hàm chứa tính thực dụng, giản tiện theo lối tư duy cư dân nông nghiệp pha trộn sắc thái sông nước phóng khoáng.
Hệ thống TTDG về ứng xử với MTTN của người Việt vùng U Minh chủ yếu hình thành trên bốn lĩnh vực cơ bản của ĐSVC là ăn - mặc - ở - đi lại (chủ yếu là đường thủy). Vốn tri thức ở mỗi phần đều có một quá trình từ khi cảnh quan vùng U Minh còn hoang dã cho đến khi được khai phá trở thành cụm dân cư có đủ điều kiện sống hiện đại như ngày nay. Giá trị của TTDG của người Việt vùng U Minh trong cuộc sống luôn song hành với thiên nhiên, tính tích cực và tiêu cực của việc ứng dụng tri thức đó biểu hiện rất rõ trong quá trình chinh phục thiên nhiên. Có những phần tri thức trong mỗi lĩnh vực biến đổi khác nhau và liều lượng tiếp nhận tri thức hiện đại khác nhau. Có những phần biến đổi hoàn toàn về bản chất, cũng có những phần lại hầu như không biến đổi, lại có những phần hiện nay hoàn toàn biến mất khỏi đời sống của cộng đồng dân cư. Sự biến đổi này phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện môi trường sống của họ. Theo số liệu thống kê Vùng U Minh từ thế kỷ XVII – XIX, trãi rộng gần như bao trùm cả Tây Nam bộ, đến những năm 1930 chiếm hơn 30% diện tích toàn vùng bán đảo Cà Mau và rừng tràm hiện nay chỉ còn 1,45%. Toàn bộ đất rừng được khai hoang đã trở thành đất nông nghiệp, xây dựng đô thị, cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống xã hội. Sự biến đổi nhanh chóng này là nguyên nhân chính tạo nên sự biến đổi của về bản chất của hệ thống TTDG vùng U Minh.
3. Từ khái niệm “tri thức dân gian” đến tri thức dân gian của người Việt vùng U Minh
Theo thống kê có rất nhiều khái niệm về đối tượng là “sự hiểu biết của người dân địa phương về nơi sinh sống” được các nhà nghiên cứu văn hóa xem như là “tri thức dân gian”, “kiến thức bản địa”, “kiến thức dân gian” hay “kiến thức truyền thống”… và được sử dụng với nghĩa tương đồng. Theo các nhà nghiên cứu TTDG là hệ thống của sự hiểu biết được giới hạn trong phạm vi của 1 cộng đồng trên 1 địa bàn cư trú nhất định. Khái niệm về “tri thức dân gian” của GS.TS Ngô Đức Thịnh [33, tr.2] và của World Bank (Ngân hàng Thế Giới)(1) có những điểm tương đồng như: có tính địa phương, tính truyền thống, tính bản địa ở một khu vực cụ thể; là hoạt động văn hóa có bối cảnh cụ thể; tri thức không chính thức, được truyền miệng, không ghi lại dưới dạng tài liệu văn bản; có tính biến đổi và thích nghi, liên quan mật thiết với sự sống còn và tồn tại của nhiều cộng đồng người trên thế giới; có chính thể luận về bản chất.
Để giúp cho hướng nghiên cứu, giới hạn phạm vi và làm sáng rõ ý nghĩa của khái niệm để từ đó chọn ra yếu tố thích hợp có thể dùng cách so sánh từng cặp khái niệm như: tri thức dân gian – tri thức bác học (tri thức chuyên nghiệp); tri thức địa phương – tri thức phổ thông (tri thức mang tính chung); tri thức bản địa (tri thức người đến trước) – tri thức phương Tây (tri thức người đến sau hay tri thức hiện đại gắn với xã hội công nghiệp [41, tr.15]); tri thức truyền thống – tri thức hiện đại (kiến thức khoa học).
Người địa phương ở đây được hiểu rộng hơn là những người dân đang sinh sống và chịu sự tác động của MTTN, xã hội tại địa phương đó. Bởi do hình thức trao truyền là truyền khẩu nên hệ thống tri thức không được thống nhất, bài bản và chứng minh thực nghiệm như hệ thống tri thức khoa học hiện đại. Ngoài ra bởi do người sáng tạo và làm chủ hệ thống TTDG là người dân địa phương, ít được tiếp cận với các nguồn thông tin hiện đại nên thay đổi về bản chất không nhiều. Tôi xin được chọn cách gọi chung là “tri thức dân gian” để chỉ đối tượng nghiên cứu là “sự hiểu biết của người dân địa phương về nơi sinh sống” vì về ngữ nghĩa khái niệm đã khái quát được tổng thể của bản chất vấn đề nghiên cứu.
PGS.TS. Nguyễn Chí Bền đã nhận xét: “Nam bộ là vùng đất mới, với lịch sử hơn 300 năm trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc. Các tộc người đang sinh sống ở đây như Việt, Hoa, Chăm, Khơme v.v…, đều không phải là cư dân bản địa, nghĩa là tổ tiên họ từng ở một vùng đất khác” [15, tr.28]. Chính vì điều kiện lịch sử hình thành dân cư khác biệt đã tạo nên những điểm khác nhau về đặc trưng văn hóa giữa người Việt đồng bằng Bắc bộ và người Việt vùng đồng bằng Nam bộ. Sự khác biệt đó được hình từ 2 yếu tố cơ bản: tác động của cảnh quan môi trường sống mới, cộng đồng dân cư mới hình thành mang tính đa văn hóa. Là một bộ phận người Việt đồng bằng Nam bộ, người Việt vùng U Minh có những đặc tính chung và cũng có những đặc điểm riêng do chịu tác động của môi trường sinh thái nơi sinh sống. Kho tàng TTDG về MTTN của người Việt vùng U Minh thể hiện rất rõ nét qua việc ăn - ở - mặc - đi lại và khai thác TNTN. Tuy vậy, nếu xét về góc độ người chủ của nguồn tri thức thì có thể nhận thấy rất rõ người địa phương không phải là người bản địa vì vậy “tính bản địa” không hiện diện ở vùng đất mới này. Tuy vậy, việc tiếp nhận tri thức mới để biến đổi vốn tri thức cũ, đưa ra những phương thức sáng tạo mới cũng không mấy khó khăn đối với họ. Điều này khi áp dụng vào nghiên cứu thực tiễn đời sống văn hóa của cộng đồng Việt vùng U Minh phù hợp cả về mặt nguyên bản và quá trình biến đổi bởi lẽ họ không phải là dân “bản địa” mà là “lưu dân”. TTDG của người Việt nơi đây được kết hợp hài hòa giữa những gì thuộc về văn hóa truyền thống, tri thức của dân tộc cộng cư khác (Khmer, Hoa) và quan trọng nhất là “chuyển đổi” phương thức thực hiện để phù hợp với MTTN.
Sự hiểu biết được biến đổi và ứng dụng một cách linh hoạt để mang lại hiệu quả thực tế nhất phục vụ cho ĐSVC với bốn yếu tố ăn - mặc - ở - đi lại là những phần cơ bản nhất. Tất cả những hoạt động của con người trước tiên đều nhằm thỏa mãn nhu cầu ĐSVC tiếp theo mới đến thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Những hoạt động này chính là thái độ ứng xử với MTTN, thể hiện mối quan hệ 2 chiều giữa chủ thể sáng tạo – con người và khách thể thụ động – thiên nhiên. Mối quan hệ này biểu hiện trình độ hiểu biết và khả năng khai thác thiên nhiên của con người. Con người đứng trên thế giới quan của chủ thể đủ khả năng hiểu biết về thiên nhiên mà đưa ra thái độ ứng xử với MTTN. Dù cho có khả năng đến đâu con người vẫn không thể tách mình ra khỏi MTTN và phải chịu sự tác động ngược chiều từ thiên nhiên do cách ứng xử của mình. Mối quan hệ này bao hàm tất cả giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra cả về vật chất và tinh thần. Từ những dẫn chứng trên và qua quá trình nghiên cứu tại thực địa, có thể tạm đưa ra kết luận: “Tri thức dân gian của người Việt vùng UM là tổng thể về sự hiểu biết của người dân sinh sống trên địa bàn (không mang tính bản địa) về tự nhiên, xã hội và bản thân mang tính trao truyền qua truyền khẩu. Sự hiểu biết này luôn vận động biến đổi theo quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội và được vận dụng phục vụ lại cho đời sống vật chất của người dân”.
Từ việc ứng xử với MTTN trong các hoạt động ĐSVC của cộng đồng sẽ giúp nhận thức, lý giải các hiện tượng văn hóa nền tảng hình thành hệ thống giá trị TTDG về việc ăn - mặc - ở - đi lại trong đó chứa đựng tri thức về khai thác TNTN để phục vụ cho những nhu cầu này. Quá trình khám phá, khai thác và sử dụng TNTN là quá trình sáng tạo, đúc kết kinh nghiệm tạo thành kho tàng tri thức chung và trao truyền cho thế hệ kế thừa của con người. Kho tàng TTDG của người Việt vùng U Minh cũng nằm trong qui luật chung này.
TẠM KẾT
Trong quá trình Nam tiến, hơn 300 năm khai hoang khẩn đất xây dựng vùng mới lưu dân người Việt đã vận dụng biến đổi vốn tri thức truyền thống của mình để có thể thích nghi và tồn tại trong môi trường sống đặc biệt của vùng đất rừng trầm thủy U Minh. Với bản tính linh hoạt, tư duy thực tế trong việc ứng phó với thiên nhiên, người Việt nơi đây đã kết hợp vốn tri thức của mình và tận dụng những tri thức “có lợi” của hai dân tộc cộng cư Khmer và Hoa để xây dựng thành kho tàng tri thức riêng. Hệ thống tri thức dân gian đó được hình thành trên bốn lĩnh vực cơ bản của ĐSVC của con người là ăn – mặc - ở - đi lại. Tài nguyên thiên nhiên của vùng U Minh đã bị khai thác đến mức cạn kiệt, song song đó là quá trình đô thị hóa đã làm biến đổi nhanh chóng đời sống văn hóa xã hội truyền thống nơi đây. Sự thay đổi này chính là nguyên nhân cơ bản làm cho kho tàng TTDG của người Việt vùng U Minh về ứng xử với MTTN đang dần mai một./.
PHỤ LỤC
Vài nét về tình hình nghiên cứu TTDG của vùng U Minh
Một số sử liệu, tài liệu, công trình nghiên cứu vùng U Minh đã thu thập được chủ yếu viết về lịch sử hình thành dân cư - dân tộc, địa lý, khí hậu thủy văn, tài nguyên động thực vật, nếp sống, tín ngưỡng... Trước năm 1945, một số học giả của triều Nguyễn và thời Pháp thuộc đã đề cập đến vùng đất Kiên Giang (trấn Hà Tiên xưa) như: Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn, Đại Nam thực lục chánh biên, Quốc triều chánh biên toát yếu của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Hà Tiên hiệp trấn - Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh, Hà Tiên 1900 của Viện Viễn Đông Bác Cổ, Những ngày đầu ở Nam kỳ của Béneir P.Vi-an… Đặc biệt sách Đại Nam nhất thống chí có riêng một phần về trấn Hà Tiên. Đây là những sử liệu rất có giá trị nhưng thông tin chỉ khái lược về đất nước, con người và văn hóa của vùng U Minh.
Từ năm 1945 – 1975, có một số sách nghiên cứu viết về vùng đất Nam bộ trong đó có phần viết về Hà Tiên xưa như: Vịnh Thái Lan của Sơn Hồng Đức, Người Việt gốc Miên, Sử liệu Phù Nam của Lê Hương, một số tài liệu về hành chính bằng tiếng Pháp bản dịch của Thư Viện tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên địa phương chí (1974) của Trần Thiêm Trung, Văn học Hà Tiên của Đông Hồ và Hà Tiên địa phương chí năm 1965, 1967, 1968, 1972... có phần nói về Kiên Giang và vùng U Minh. Nội dung của những sách và tài liệu này cũng chỉ khái quát chung về đặc điểm địa lý, dân cư, dân tộc hoặc một mảng về văn hóa, văn học... của cộng đồng dân cư tỉnh Hà Tiên, Rạch Giá trong đó vùng U Minh được nhắc đến nhưng chỉ ở mức độ khái quát.
Từ năm 1975 đến nay, một số tài liệu có phần nói về vùng Tây Nam bộ như Văn hóa dân gian Nam bộ, những phát thảo của Nguyễn Phương Thảo, Nam bộ xưa và nay của nhiều tác giả, Mục Hà Tiên - Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu, Tìm hiểu Kiên Giang của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Kiên Giang, U Minh dấu ấn và cảm thức, Rừng U Minh kỳ vĩ của Phan Thanh Nhàn, Hồi ký Sơn Nam của Sơn Nam, Động vật hoang dã U Minh của Anh Động, Ứng xử văn hóa trong khai thác MTTN ở Cà Mau luận văn cao học của Vưu Nghị Lực, Ẩm thực người Việt vùng U Minh luận văn cao học của Nguyễn Diệp Mai... Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu, bài viết của một số tác giả người Kiên Giang về VHDG của Kiên Giang và vùng U Minh nhưng cũng chỉ khiêm tốn ở một vài khía cạnh đơn lẻ về ẩm thực, ở, mặc, khai thác tài nguyên, tín ngưỡng...
Ở một số công trình nghiên cứu về môi trường sinh thái dạng tổng hợp cung cấp thông tin giúp nhận diện được một số đặc điểm về địa lý, môi trường tự nhiên (MTTN) bước đầu giúp hình dung được diện mạo về vùng đất U Minh. Những số liệu thống kê so sánh cho thấy địa giới ban đầu được ghi nhận của rừng U Minh thay đổi nhanh chóng, cùng với sự khai hoang với tốc độ nhanh trong gần 1 thế kỷ đã làm thay đổi nhanh chóng cuộc sống của cộng đồng dân cư nơi đây. Từ những thay đổi MTTN đã hình thành và làm thay đổi cách thức sinh hoạt, tư duy và mô hình cộng đồng dân cư trên vùng đất U Minh. Những thông tin này sẽ giúp giải thích tương đối chính xác về những dạng địa hình tự nhiên đặc thù của vùng U Minh, giúp ích trong việc tìm hiểu về cách thức, phương tiện sinh hoạt của người dân địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Kiên Giang (1986), Tìm hiểu Kiên Giang.
2. CARE (Đan Mạch -1998), Dự án phát triển cộng đồng và bảo tồn khu bảo tồn U Minh Thượng, Kiên Giang.
3. Nguyễn Đình Đầu (1999), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp Nam kỳ lục tỉnh, Nxb Trẻ, in lần 2.
4. Lê Quí Đôn (1997), Phủ Biên tạp lục, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học Xã hội.
5. Sơn Hồng Đức (1973), Vịnh Thái Lan, Nxb Trăm Hoa miol, Miền Tây, Sài Gòn.
6. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, Nha Văn hóa Sài Gòn, tập hạ.
7. Trần Hồng Hạnh, Tri thức địa phương – sự tiếp cận lý thuyết, tạp chí Dân tộc học số 1 – 2005
8. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam bộ, Nxb Trẻ.
9. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Đồng Nai (1997), Giữ gìn và phát huy tài sản văn hóa các dân tộc ở Đông Nam bộ, Nxb Khoa học Xã hội, 1997, tr.28
10. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa Thông tin
11. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam – Trường Đại học Cần Thơ (2004), Tìm hiểu đặc trưng di sản VHDG Nam bộ, Nxb Khoa học Xã hội
12. Lê Hương (1974), Sử liệu Phù Nam, Nxb Nguyên Nhiêu, Sài Gòn.
13. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Tp.HCM.
14. Vưu Nghị Lực (1997), Ứng xử văn hóa trong khai thác môi trường thiên nhiên ở Cà Mau, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, luận văn thạc sĩ 1997
15. Nguyễn Diệp Mai, Ẩm thực người Việt vùng U Minh, Viện Nghiên cứu VHDG, luận án cao học 2005
16. Sơn Nam (1993), Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa, Nxb Tp.HCM.
17. Sơn Nam, Hương rừng Cà Mau, Nxb Trí Đăng, Sài gòn
18. Sơn Nam (1992), Văn minh miệt vườn, Nxb Văn Hóa.
19. Sơn Nam (1994), Lịch sử khai khẩn đất hoang miền Nam, Nxb Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh.
20. Phan Thanh Nhàn (1994), Rừng U Minh kỳ vĩ, Nxb Mũi Cà Mau.
21. Phan Thanh Nhàn, U Minh dấu ấn và cảm thức, Hội Văn nghệ Kiên Giang 1993.
22. Nhiều tác giả (2000), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tái bản lần thứ 3.
23. Nhiều tác giả (2005), Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
24. Paulin Vial (1874), Những năm đầu Nam Kỳ thuộc Pháp (Les premières anneés de la Cochinchine colnie Francaise), tập I, II, III, Challamel, Paris, bản tiếng bản dịch tiếng Việt tại Kho lưu trữ Thư viện tỉnh Kiên Giang.
25. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Ngô Đức Thịnh (1986), “Truyền thống ăn uống Việt Nam với dưỡng sinh và trị bệnh”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (7).
28. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Ngô Đức Thịnh (2002), “Tri thức bản địa và văn hóa dân tộc”, Hội thảo Sử dụng kiến thức bản địa trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên vùng cao tại Hà Nội, (6).
30. Ngô Đức Thịnh (2004), “Thế giới quan bản địa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (5).
31. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.
32. Ngô Đức Thịnh (2007), Bàn thêm về “tri thức địa phương”, tập tài liệu Chuyên san Nhân học đương đại, Hội Dân tộc học Việt Nam, (4).
33. Ngô Đức Thịnh (1997) – Local Knowledge and Development. “Integration of Endgenous Cultural Dimention into Development”, Vol.N2, New Delhi
34. Ngô Đức Thịnh – Frank Proschan chủ biên (2005), Kolklore một số thuật ngữ đương đại, Đoàn Đức Lưu – Lê Thị Thanh Hương – Hoàng Thị Anh Thư biên dịch, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Ngô Đức Thịnh – Frank Proschan chủ biên (2005), Folklore thế giới và một số công trình nghiên cứu cơ bản, Phạm Lan Hương - Đỗ Trọng Quang – Vũ Thị Thanh Hương – Đoàn Đức Lưu - Hồ Hải Thuỵ - Lê Thị Lệ Thanh – Hoàng Thị Anh Thư - Ngạc Quỳnh Mai - Đỗ Gia Huy biên dịch, Viện Nghiên cứu văn hóa - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Thức (2000), Mấy vấn đề về bản sắc văn hoá dân tộc, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
37. Trần Thiêm Trung (1974), Hà Tiên địa phương chí, Nha Văn hoá, Sài Gòn.
38. Quốc sử quán triều Nguyễn (1972) - Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb Khoa học Xã hội.
39. Quốc sử giám triều Nguyễn (1969), Đại Nam thực lục chính biên, Nxb Khoa học Xã hội.
40. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang (2000), Tài liệu điều tra nguồn tài nguyên vùng rừng U Minh Thượng năm 2000, Bản đánh máy.
41. Sở Thủy sản Kiên Giang (2000), Thủy sản Kiên Giang, in tại Xí nghiệp in Hồ Văn Tẩu.
42. Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao Kiên Giang (1997), Kỷ yếu hội thảo Di tích lịch sử căn cứ địa Cách mạng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang.
43. Tòa hành chánh Kiên Giang (1970) - Địa phương chí - 1970.
44. Hoàng Xuân Tý (1998), Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
45. Viện Nghiên cứu văn hóa (2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Thông báo văn hóa dân gian 2004, Thông báo văn hóa dân gian 2005, Thông báo văn hóa dân gian 2006, Thông báo văn hóa dân gian 2007, Thông báo văn hóa dân gian 2008, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Viện Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh (1982), Một số vấn đề về đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Viện Văn hoá Dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
48. Viện Viễn Đông Bác Cổ, Hà Tiên 1900, bản in thạch lưu trữ tại Thư Viện tỉnh Kiên Giang.
49. Viện Viễn Đông Bác cổ (1929), Địa phương chí Hà Tiên, bản in thạch lưu trữ tại Thư Viện tỉnh Kiên Giang.
50. Trần Quốc Vượng chủ biên (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
II. Tài liệu tiếng nước ngoài
1. Agrawal,A (1995a), Dismantling the divide between indigenous and scientific knowledge. Development and Change 26: 413-39 (Xoá bỏ sự phân cách giữa tri thức bản địa và tri thức khoa học. Phát triển và Chuyển đổi) – (1995b), Indigenous and scientific knowledge: Soan critical comment. Indigenous Knowledge and Development Monitor 3 (3):3-6 (Tri thức bản địa và trí thức khoa học: Một số bình luận phê phán. Tri thức bản địa và Giám sát phát triển).
2. Atte,O (1992), Indigenous local knowledge as a key to local level development: Possibilities, contraints, and planning issues. Ames: Iowa State Unversity (Tri thức địa phương bản địa là chìa khoá cho sự phát triển ở cấp địa phương: những triển vọng, hạn chế và vấn đề lập kế hoạch).
3. J. Bouault (1927), Géographie de L’Indochine Tonkin – Annam – Cochinchine – Combodge & Laos, Imprimerie d’extrème – orient – Ha Noi – Hai Phong Éditeur.
4. Stephen B.Brush and Doreen Stabinsky (1996), Valuing Knowledge, Indigenous People and Intellectual Property Rights, Island Press.
5. Crichley, W., C.Reij, and T.J. Willcocks (1994), Indigenous soiland water conservation: A review of the state of knowledge and prospects for building on tradition. Land Degradation and rehabitilation 5:293-314 (Bảo tồn đất và nước bản địa: Đánh giá thực trạng của tri thức và những triển vọng để đặt niềm tin vào truyền thống: Suy thoái và phục hồi đất).
6. Ellen,R.F and H.Harris (1997), Indigenous enviromental knowledge in scientific and development literature: A critical assessment. Canterbury: University of Kent at Canterbury (Tri thức môi trường bản địa trong tài liệu khoa học và phát triển: Đánh giá phê phán).
7. Howes.M (1980), “The use of indigenous technical knowledge in development” in Indigenous knowledge systems and development. Edited by D.Brokensha, D.M.Warren and O.Werner, pp.323-34. Lanham: University Press of American (“Sử dụng kỹ thuật bản địa trong phát triển” trong Các hệ thống tri thức bản địa và phát triển).
8. Metrick,H (1993), Mobilizing indiginous knowledge: Development-oriented research in agriculture. The Hague: ICRA (Phát huy tri thức bản địa: Nghiên cứu theo định hướng phát triển trong nông nghiệp).
9. Ngô Đức Thịnh (1997), Local Knowledge and Development. “Integation ò Endgenous Cultural Dimention into Development”, Vol.N2, New Delhi.
10. Warren, D.Michael and K.Casman (1988), Indigenous knowledge for sustainable agriculture ang rural development. Sustainable Agriculture Programme, International Institute for Evironment and Development, Gatekeeper Series SA 10 (Tri thức bản địa phục vụ phát triển nông thôn và nông nghiệp bền vững).
11. www.worldbank.org/afr/ik/index.htm
12. www.vcn.bc.ca/citizens-handbook/unesco/most/bpindi.html#definition
15. http://www.dunglac.org/upload/article/f__1183129482.htm, Nước, văn hoá và hội nhập, Trần Ngọc Thêm.
No comments:
Post a Comment