Thursday, December 19, 2013

Mẫu số nhân văn

Mẫu số nhân văn
Florian Znaniecki, Lê Hải dịch

Lời người dịch: Không phải ai cũng hiểu thấu đáo về vấn đề “chủ quan - khách quan” trong nghiên cứu trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Tương tự vậy, “yếu tố con người” cũng là một vấn đề cần được chú ý hàng đầu trong các nghiên cứu này. Để bổ sung vào hệ thống triết học tư duy xin giới thiệu một đoạn phân tích ở mục 2 trong chương 1 của tác phẩm kinh điển Phương pháp Xã hội học (bản gốc tiếng Anh The Method of Sociology xuất bản năm 1934, dịch từ bản dịch tiếng Ba Lan do GS Elżbieta Hałas thực hiện, xuất bản năm 2008, trang 67-70). Tác giả là GS triết và xã hội học người Mỹ gốc Ba Lan Florian Znaniecki.

... Mỗi hệ thống văn hóa luôn tồn tại thuộc về các đối tượng lịch sử có nhận thức và chủ động, tức là hiện hữu trong trải nghiệm và hoạt động của một sắc dân nhất định, các cá nhân và tập thể, sống trong một phần nhất định của thế giới loài người và trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy mà hệ thống văn hóa đó hiện hữu và khách quan đối với nhà nghiên cứu cũng như đối với các đối tượng lịch sử khi trải nghiệm điều đó, trong quá khứ hay hiện tại, khi chủ động tham gia. Tính chất cơ bản đó của hiện tượng văn hóa ta gọi là mẫu số nhân văn, tức là những gì mà đối với nhà nghiên cứu lý thuyết thì thuộc về trải nghiệm chủ động của người khác cũng như là những gì mà trải nghiệm chủ động tạo ra.

Nếu loại trừ mẫu số nhân văn và nhà khoa học buộc phải nghiên cứu hệ thống văn hóa như là một hệ thống trong ngành tự nhiên, thì lúc đó hệ thống đó sẽ tồn tại như là không liên quan gì đến trải nghiệm của con người và hoạt động của hệ thống sẽ biến mất và người nghiên cứu thay vì nhìn thấy điều đó sẽ chứng kiến một loạt vật thể và quá trình vô trọng lượng tự nhiên, và không còn tìm hiểu được bất kỳ điều gì tương tự với  thực tại mà anh ta muốn phân tích nữa.
Lấy ví dụ, ngôn ngữ, bất kể là tiếng Pháp hiện đại hay tiếng Hi Lạp cổ đại, chỉ tồn tại khi có một nhóm người sử dụng và hiểu nhau bằng thứ tiếng đó. Đó là một tập thể lịch sử sinh sống trong một không gian và thời gian nhất định, cũng như các cá nhân sống ở nơi nào khác hay trong giai đoạn sau đó. Với nhà ngôn ngữ học thì các ngôn ngữ đó mang các tính chất nhất định dành cho quần thể đó. Hay ví dụng như là đạo Islam, chỉ tồn tại được như là một tôn giáo chỉ khi có một nhóm người khá đông và nhiều thành phần ở phương Đông tin và tuân theo các nghi lễ của đạo. Và người nghiên cứu cần nhìn nhận tôn giáo này qua mắt nhìn của tín đồ hay là cách mà các hệ phái và trường phái tôn giáo muốn cải biên. Ngân hàng Anh là hệ thống kinh tế chỉ tồn tại khi có đông người ở nước Anh và người ở nơi khác thực hiện một số hoạt động kinh doanh nhất định và có một số trải nghiệm nhất định mà nhờ đó “ngân hàng” trở thành hiện thực và ảnh hưởng lên cuộc sống của con người. Nhà nghiên cứu kinh tế phải nhìn nhận hệ thống này trong trạng thái như đang hiện hữu trong không gian trải nghiệm và hoạt động của những người đó, mà trước hết là ý nghĩa của ngân hàng đối với các cổ đông, giám đốc chi nhánh, nhân viên, văn phòng đại diện, đối tác, con nợ và chủ nợ. Hệ thống triết học Platon là hệ thống như đang hiện hữu trong khu vực hoạt động tư duy và trải nghiệm của chính Platon và tất cả học trò của ông, người đọc sách của ông, cùng tất cả những ai phê bình ông từ thời cổ đại cho đến ngay hôm nay, và phải được sử gia triết học và khoa học nghiên cứu môt cách khách quan như là hệ thống đó được tất cả những người vừa kể hiểu như thế nào.

Bây giờ thử giả sử xem điều gì sẽ xảy ra khi nhà nghiên cứu loại trừ mẫu số nhân văn. Lúc đó tiếng Pháp chỉ còn là một đống âm thanh khổng lồ và không có ý nghĩa gì do hàng trăm triệu cá thể thuộc loài homo sapiens tạo ra, cùng những quá trình còn phức tạo hơn diễn ra bên trong cơ thể các cá thể đó. Đạo Islam hay Ngân hàng Anh chỉ còn là một tập hợp còn rắc rối hơn của những âm thanh hỗn loạn, của cử động cơ thể, của quá trình sinh lý, những đống gỗ, gạch và đá, cùng những tờ giấy dính mực. Triết học Platon, trừ khi nhà nghiên cứu muốn coi đây là Tư tưởng tinh khiết tuyệt đối vượt khỏi trí tuệ loài người, không thì theo nguyên tắc tương tự chỉ còn là những quá trình hữu cơ, âm thanh, giấy đóng tập, và mực in. Trong thế giới tự nhiên hỗn loạn của các vật thể và quá trình đó, nhà khoa học có thể tạm coi một số hệ thống tự nhiên nhất định như là hệ đóng, chẳng hạn giống như là một cơ chế phản ứng sau khi nhận được tác động từ một số kích thích nhất định từ bên ngoài. Nhưng cái hiện thực trong các hệ thống do nhà nghiên cứu ngôn ngữ hay tôn giáo, kinh tế hoặc triết học khám phá sẽ không giống với chẳng hạn như là hệ thống hóa chất tạo ra màu vẽ, trong trường hợp ví dụ như là khi ta nghiên cứu nét cọ mô tả chân dung của Gainsborough hay cách diễn tả phong cảnh của Turner.