Nhân học kinh tế theo trường phái tân
Weber
Nguyễn Hoàng Mỹ Phương dịch [*]
Sau một thời gian dài suy tàn, nhân học kinh tế đang trải qua thời kỳ phục hưng. Đã có sự hồi sinh đáng chú ý trong nghiên cứu về tiêu thụ (Miller 1994, 1995, 1997), toàn cầu hóa (Appadurai 1996; Friedman 1995), kinh tế chính trị tân Marxist (E. Wolf 1982, 1999; Clammer 1985; Roseberry 1988, 1989; Mintz 1985; Donham 1990), phân tích dân tộc ký của các ngành công nghiệp cụ thể (Attwood 1992; D. Wolf 1992; Janelli 1993; Moberg 1997), tư tưởng kinh tế và phương pháp luận (Gudeman 1986; Gregory và Altman 1989; Gudeman và Rivera 1990; Carrier 1997), tặng quà (Strathem 1988; Weiner 1992; Godelier 1999), và nền tảng văn hóa và các vấn đề đi kèm của đời sống kinh tế (Douglas và Isherwood 1979; Douglas và Ney 1998; Appadurai 1986; Parry và Bloch 1989; Hefner 1990). Thậm chí đã có một số sách giáo khoa mới và nghiên cứu ngành phụ (Halperin 1994; Wilk 1996; Narotzky 1997; Gudeman 1998).
Bài viết này
thảo luận một quan điểm lý thuyết đang nổi lên trong sự tái sinh của nhân học
kinh tế. Sau gần hai thập niên trong đó phương pháp tiếp cận theo trường phái Marx
chiếm ưu thế, những nhà nhân học kinh tế đang ngày càng tìm đến Max Weber như
là vị tiền bối đáng kính, người đã đặt ra những câu hỏi tiên tri nhất về mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa. Thay vì xem văn hóa là một phần của cấu trúc
thượng tầng theo thuyết hiện tượng phụ (epiphenomenal superstructure) xác định “trong
trường hợp cuối cùng” bởi lực lượng vật chất, những người theo trường phái tân
Weber tích hợp quan điểm tập trung về ý nghĩa của nền văn hóa vào phân tích thể
chế và xã hội và xem tất cả đời sống xã hội – bao gồm cả đời sống kinh tế – được
làm sống động bởi văn hóa. Trong khi đó, truyền thống cũ xem đời sống kinh tế
trong xã hội theo hướng phi thị trường như được “gắn kết/nhúng” vào trong xã hội
và văn hóa, trường phái tân Weber xem sự gắn kết văn hóa (cultural embeddedness[1]) như
vậy thậm chí trong bối cảnh đô thị, phức tạp và tư bản nhất. Cách tiếp cận Tân Weber,
trong ý nghĩa này, có nghĩa là nhà nhân học kinh tế càng thông hiểu với sự đổi
hướng diễn giải, đổi hướng văn hóa trong nhiều ngành khoa học xã hội đương đại,
bao gồm phần còn lại của nhân học.
Mặc
dù theo phong cách Weber thật sự, quan
điểm này đa dạng, lan tỏa,
và vẫn được xác định trong thực tế, một số đặc trưng của nhân học kinh tế tân
Weber bao gồm chiết
trung nhân quả (causal eclecticism), tính trung lập chính trị (theo ý nghĩa cụ thể được
thảo luận dưới đây), thiên hướng
theo trường phái quy nạp (inductivism[2]), và tự ý thức về xây dựng mô hình. Tất
cả những người theo trường phái tân Weber nhấn mạnh tầm
quan trọng của văn hóa, nhưng
họ không xem văn hóa hoặc là như cái
“hộp” riêng biệt và
cô lập khỏi đời sống xã hội, chính trị và kinh tế hoặc
là như tập hợp các truyền thống
và quy tắc ứng xử miễn nhiễm với các hoạt động sáng tạo
của cá nhân (individual agents). Theo cách này, đó là nỗ lực tạo nên nền tảng ở khoảng giữa
giữa những người theo cách tiếp cận
cấu trúc (structuralist[3]), tân Marxist[4] mà
(theo cách rất riêng trong nhân học)
được gọi là “kinh
tế chính trị” (“political economy”[5]) và các phương pháp tiếp cận diễn giải, tập trung vào ý nghĩa đối với đời sống kinh tế.
Do quan điểm này có nhiều
điểm tương đồng và chia sẻ nhiều
lợi ích với kinh tế học thể chế
(institutional economics[6]), nhưng khá mới
mẻ nên ít được biết đến bởi hầu hết những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutionalists), mục đích của bài viết này
là mô tả và trình bày cách tiếp cận này trong
nhân học để độc giả của tạp chí này quan tâm bồi đắp hình thức hợp tác liên ngành (nên) có giữa những di sản tương ứng của chúng ta. Trường phái kinh tế học thể chế Mỹ vào đầu thế kỷ 20 đã có
một số kết nối với trường phái
lịch sử kinh tế học Đức (German
historical thought of economics) (Mayhew 1988), trong đó Weber là
một thành viên kiệt xuất. Với
sự đi xuống của trường phái lịch sử Đức, các liên kết quan điểm Schmoller-Sombart-Weber
và quan điểm Veblen-Commons-Mitchell-Ayres
đã bắt đầu khô héo. Có lẽ bài viết này có
thể là một bước đi nhỏ hướng tới phục
hồi kết nối đã bị mất cho quyền (birthrights) chung của chúng ta.
Nhưng, để không có bất
kỳ hiểu lầm nào, hãy để tôi nêu ngay một vài điều mà bài viết này không có ý
định nói đến. Bài viết không phải là lịch sử nhân học kinh tế và nó thậm chí
còn đề cập ít đến lịch sử tương tác giữa nhân học và kinh tế học thể chế. Mặc
dù tôi trình bày một lượng hợp lý bối cảnh lịch sử, mục tiêu của tôi là đặt bối
cảnh này mẫu hình (paradigm) đang nổi lên mà tôi tin rằng những người theo
trường phái kinh tế học thể chế sẽ quan tâm; và do đó, mô tả lịch sử của tôi nhất
thiết phải chọn lọc và ngắn gọn. Đây không phải là bản tóm tắt các nghiên cứu đương
đại trong nhân học kinh tế, trong đó, mặc dù xâm nhập đáng kể của tân Weber, nhưng
nó vẫn chủ yếu là tân Marxist. Một bản tóm như vậy sẽ đòi hỏi ít nhất cách xử
lý độ dài quyển sách. Nó không có nghĩa là tán dương ưu điểm của các ý tưởng cụ
thể của Weber hoặc gợi ý rằng những người theo trường phái kinh tế học thể chế
cần phải đặt ông vào ngôi đền riêng của họ thờ các bậc tiền bối linh thiêng. Bài
viết cũng không có nghĩa là giới thiệu về tư tưởng tân Weber trong khoa học xã
hội hoặc thậm chí trong nhân học nói chung. Weber đang tạo nên cuộc quay lại to
lớn trong nhiều lĩnh vực con của xã hội học, bao gồm xã hội học kinh tế (economic
sociology[7]) và xã
hội học chính trị (political sociology) (ví dụ, Mann 1986; Holton và Turner
1989; Swedberg 1998). Mặc dù thấy đa số các tài liệu chuyên ngành này rất hấp
dẫn nhưng tôi không phải là nhà xã hội học và do đó không đủ trình độ để trình
bày các phương pháp tiếp cận của ngành học đó đến đối tượng học giả uyên thâm.
Trong phạm vi chuyên ngành nhân học của tôi, những người tự nhận là theo trường
phái nhân học tân Weber nhất, họ quan tâm nhiều hơn đến tôn giáo hơn là các chủ
đề về kinh tế (ví dụ, Tambiah 1985, 1990; Bowen 1998). Tôi sẽ không thảo luận
về những người theo trường phái tân Weber đó trong bài viết này.
Một số khái
quát
Mặc dù nhân học kinh tế có thể lần theo dấu vết nguồn gốc ở công trình tiên phong của Bronislaw Malinowski (1922), Marcel Mauss (1954), và Raymond Firth (1967) trong nửa đầu thế kỷ 20, cuộc tranh luận giữa cái gọi là formalists và substantivists[8] nổ ra trong những năm 1950, 1960, và đầu những năm 1970 thu hút nhiều chú ý trong toàn bộ ngành nhân học và mang đến các hoạt động sôi nổi nhất trong nhân học kinh tế. Dĩ nhiên, cuộc tranh luận này không có gì là mới cả. Mặc dù tên gọi (labels) và thành phần tham gia khác nhau nhưng vấn đề là giống hệt những gì trong Methodenstreit (hay Method War) vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Đức và vô số các tranh luận khác về việc liệu nghiên cứu đời sống kinh tế cần hướng tới nghiên cứu quy nạp (inductive) bắt chước lịch sử hay nghiên cứu hình thức (formal) và suy luận (deductive) bắt chước vật lý. Điều đáng chú ý nhất của tranh luận này trong nhân học là trong thực tế, những người tham chiến ít khi nhắc đến các tranh cãi tương tự, lâu dài hơn, và gây nhiều hậu quả hơn trong các ngành khác, đặc biệt là kinh tế học. Như thể nhân học kinh tế là một lĩnh vực đứng tự do mà không có nhiều mối quan hệ lý thuyết hay thực nghiệm (empirical) với các ngành có liên quan ngoài phần còn lại của nhân học.
Đáng chú ý nhất là hiếm
có sự thừa nhận rằng Thorstein Veblen, John R. Commons, Wesley C. Mitchell, Clarence
Ayres, hoặc John Kenneth Galbraith đã có những phê bình sâu sắc về formalism quá
mức và các giả định không hợp lý (unreasonable) trong kinh tế học. Phải tìm
kiếm khó khăn mới tìm ra được các tham khảo đến những người theo trường phái
thể chế (institutionalists) vĩ đại này trong tài liệu chuyên ngành nhân học. Những
người theo trường phái thể chế, bởi sự tuyệt vời của họ, đã không được đáp trả bằng
“lời khen”. Mặc dù hầu hết các nhà kinh tế học chính thống bỏ qua những nhân vật
như vậy trong nhân học như Melville Herskovits, Marshall Sahlins, Raymond Firth,
Paul Bohannan, và Harold Schneider, nhiều người theo trường phái thể chế (Neale
1962; Mayhew 1972, 1980; Adams 1972) đã kết hợp những hiểu biết về nhân học và đóng
góp các tranh luận lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm quan trọng, chủ yếu là ở
phía substantivist. Nhân vật mà công trình nghiên cứu nhiều hơn bất kỳ người
nào khác, là đầu mối hợp tác giữa nhân học kinh tế và kinh tế học thể chế, tất
nhiên, đó là Karl Polanyi – nhà substantivist vĩ đại (Neale và Mayhew 1983), ông
đã dạy ở khoa kinh tế tại Columbia, phối hợp với một số nhà nhân học, và cũng
là tuyên bố của các nhà sử học kinh tế. Ngoài Polanyi, một mắt xích quan trọng là
George Dalton, được đào tạo như một nhà kinh tế và là một trong những nhân vật
hàng đầu của trường phái anthropological substantivism [1].
Vì là trường hợp có nhiều
tranh luận gay gắt trong lý thuyết nhân học, mâu thuẫn giữa
formalist-substantivist đã không kết thúc bởi các dữ liệu thực nghiệm tốt hơn hay
lập luận có sức thuyết phục hơn đã chiến thắng. Nó chỉ kết thúc bởi vì lợi ích lý
thuyết trong ngành học rộng hơn của nhân học chuyển sang các vấn đề khác nhau. Nhà
nhân học đặt trọng tâm vào nhìn toàn cảnh (holism), và vì vậy chúng ta có xu
hướng ít tập trung vào chuyên ngành phụ (subdisciplinary). Dòng lý thuyết trong
nhân học kinh tế, ví dụ, đã luôn luôn đi theo xu hướng trong nhân học văn hóa xã
hội (sociocultural) như là một tổng thể. Một mặt, sự trỗi dậy của phương pháp
tiếp cận theo trường phái Marx và mặt khác, phương pháp tiếp cận diễn giải, nhân
văn dần dần làm cho các vấn đề của cuộc tranh luận formalist-substantivist là tin
tức của ngày hôm qua đối với hầu hết những nhà nhân học.
Nhưng sự thật đây không
phải là một cuộc tranh luận đặc biệt cân bằng ngay cả ở tầm cao của nó. Formalism
không bao giờ có nhiều cơ hội đứng trong vùng đất khắc nghiệt của nhân học Mỹ. Phương
pháp tiếp cận formal đối với nhân học so sánh (comparative anthropology) đã phổ
biến tại Anh trong suốt uy thế của thuyết chức năng cấu trúc
(structural-functionalism[9]) trong
những năm 1930 và 1940, và chúng luôn phổ biến nhiều trong nhân học Pháp được
lấy cảm hứng từ duy lý (Des)cartes (Cartesian, rationalist-inspired French anthropology).
Nhân học Mỹ kể từ thời của Franz Boas (vào đầu thế kỷ 20), tuy
nhiên, được đặc trưng bởi đặc thù (particularism), nghi ngờ về lý thuyết lớn [grand
theory - lý thuyết lớn là thuật ngữ
do nhà xã hội học người Mỹ C. Wright Mills đặt ra trong Mường tượng xã hội (The Social Imagination) để chỉ hình thức lý
thuyết hóa trừu tượng cao (highly abstract theorizing),
trong đó tổ chức chính thức và sự sắp xếp
các khái niệm ưu tiên hơn so
với sự thông hiểu về thế giới xã hội -
ND], không ưa thích cá nhân luận (methodological individualism), và sự
tôn trọng gần như thiêng liêng đối với mô tả mịn (fine-grained description). Nói
cách khác, trong khi vài formalists đáng chú ý xù lông, họ không bao giờ có những
xâm nhập nghiêm trọng vào nhân học Mỹ - đó là ý thức hệ ác cảm với thông điệp của
họ trong nền tảng vi mô (microfoundations[10]),
định lượng (quantification), “duy lý” phổ quát, và xây dựng mô hình. Khẳng định
rằng phương pháp formal và một thế giới quan chủ nghĩa cá nhân là cần thiết để
nghiên cứu đời sống kinh tế được nhà nhân học có góc nhìn toàn diện nhìn nhận
như một thách thức đối với kiểu tường thuật, dân tộc ký của sự thông hiểu mà
chính đây là đặc trưng của nền tảng phương pháp luận của ngành học này. Thông
điệp của substantivist về bối cảnh văn hóa, các nguyên tắc kinh tế khác nhau gắn
liền với các xã hội khác nhau, và sự gắn kết của kinh tế trong các thể chế xã hội
và văn hóa (Polanyi 1944) là phù hợp hơn với phương thức thông hiểu đó.
Một thuộc tính tư
tưởng khác của nhân học kể từ Boas là thái độ chống đối đối với xã hội tư bản
và xã hội định hướng thị trường, mà thường tự biểu lộ thông qua lý tưởng hóa lãng
mạn mang tính chất khác biệt của xã hội “nguyên thủy”. Boas, trên hết, được
giáo dục tại Đức – một đất nước thấm nhuần sâu sắc với sự nhạy cảm lãng mạn thời
kỳ cuối. Nổi tiếng khi cho rằng săn bắt và hái lượm là “xã hội giàu có nguyên
thủy” (“the original affluent society”) trong quyển sách xuất bản năm 1972 mang
tên Stone Age Economics (Kinh tế học Thời
kỳ Đồ đá), Marshall Sahlins đã thể hiện quan điểm, trong một số phần, đại
diện cho sự giao thoa giữa chủ nghĩa lãng mạn nhân học (anthropological
romanticism) này và sự đối nghịch với văn hóa đang phổ biến (counterculture) của
những năm 1960. Đây không phải
là lời phê bình đối với cuốn
sách mang tính chất khai phá này mà chính Stone Age Economics đã cung cấp liều thuốc giải độc
có giá trị cho giả
định ngầm của trường phái “hiện đại hóa” của ưu thế kỹ thuật và
đạo đức phương Tây. Nó cảnh báo chúng ta một thực tế rằng
niềm tin chiếm ưu thế mà chúng ta
đang nắm giữ - công nghiệp hóa giải
phóng chúng ta khỏi phần lớn các
công việc vất vả trong các xã hội
phi công nghiệp - chủ yếu chỉ là huyền thoại (Schor 1991).
Nó cũng cho thấy giả định của các nhà kinh tế về sự khan hiếm phổ quát phần
lớn là thiên kiến (bias) văn hóa. Điểm chính của tôi ở đây là trong một môi
trường trí tuệ đặc trưng bởi sự lãng mạn và chống thị trường, substantivism đã
nhất quán hơn nhiều với cách thức mà hầu hết các nhà nhân học đã nghĩ và vẫn
nghĩ. Thực tế, nhiều nhà nhân học của thời kỳ đó đã xem kinh tế học tân cổ điển
là một thứ khoa học xã hội thụt lùi, đáng nghi ngờ về mặt tư tưởng, và nguy
hiểm nhất – một thái độ mà phần lớn vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay.
Lý do mà formalism bắt
đầu có ảnh hưởng đáng chú ý và trực tiếp đến nhân học là bởi vì trong thực tế, những
năm 1950 và 1960 là thời kỳ mà các chương trình tiến hóa văn hóa và so sánh xuyên
văn hóa đã trở lại khiêm tốn qua những nỗ lực của các học giả như Julian Steward,
Leslie White, và George Peter Murdock. Trong một số vòng ảnh hưởng quan trọng, bóng
ma của Boas và các học trò của ông đã được yểm trừ, và lý thuyết lớn, phổ quát
hóa đã được tích cực thảo luận nhiều hơn bao giờ hết kể từ những năm 1890. Sự sùng bái ý tưởng này xuất hiện với
sự phổ biến của “trường phái duy vật
văn hoá” (“cultural materialism”) của Marvin Harris trong những năm 1960 và 1970. Mặc dù vẫn
có những nhà nhân học đi theo hướng
trường phái duy vật văn hoá và thuyết
tiến hóa nhưng công bằng mà nói thì các quan điểm này đã trở nên rất lỗi thời và đứng ở vị trí ngoại biên trong ngành học ngày nay. Sahlins bác bỏ mạnh mẽ (1976)
khuynh hướng tiến hóa trước đây
của mình (cũng như phương pháp tiếp
cận Marxist, duy vật, và tân cổ điển) có lợi cho thuyết cấu trúc quyết
định lịch sử, văn hóa là một sự
kiện quan trọng của khoảnh khắc sụp đổ của lý thuyết lớn [2].
Cuối
những năm 1970 và đầu những năm
1980, cuộc tranh luận giữa formalist-substantivist bề ngoài có vẻ đang diễn ra và
nhân học kinh tế bắt
đầu suy yếu. Chủ nghĩa Marx cấu trúc (structural
Marxism[11]) (hoặc trường phái Althusser với đặc tính Levi-Strauss) bùng lên trong thời kỳ ngắn dưới vỏ bọc của sự
nhập khẩu Pháp. Các
chủ đề chính của trường phái này
bao gồm các khớp nối giữa những phương
thức sản xuất, liệu quan hệ họ
hàng và các trục khác của tổ chức xã hội có thể được xem là một phần của kết cấu bên dưới trong
các xã hội tiền tư bản hay không, và liệu hình thức nguyên
thủy của khai thác giai cấp có thể được phân biệt trong
những xã hội như thế hay không [3]. Chủ nghĩa
Marx cấu trúc bùng cháy rực rỡ
trong thời kỳ ngắn - chắc chắn đã có tính chính
trị chính xác tại thời điểm
chính xác - sau đó nó đã trở thành quá lỗi thời
và lụi tàn, ít nhất là ở Bắc Mỹ. Sự
ngắn ngủi này trở
thành trò đùa của nhiều câu chuyện
cười hồi tố, và một số trong các nhân vật nổi lên một lần -
chủ yếu các nhà nhân học Pháp - đã
trở thành người dị biệt trong ngành. Nhìn lại, có vẻ hiển nhiên rằng nhà nhân học dựa trên các cấu trúc, lực lượng, và khớp nối giữa các phương thức sản xuất đã không thể tồn tại lâu dài được trong một
ngành với xu hướng thiên lệnh chân
thành đối với việc nghiên cứu
đời sống và suy nghĩ của con người bằng xương bằng thịt. Sử gia Marxist người Anh
E. P. Thompson phê
phán nặng nề những người theo trường phái Althusser
(1978), trong đó
ông lập luận rằng cần thiết phải đưa
các chủ thể (actors) con người thực trở
lại vào đàm luận (discourse) và
phân tích Marxist, đã nhận được
sự ủng hộ to lớn của các nhà nhân học Mỹ đang theo
dõi cuộc tranh luận. Chủ nghĩa Marx tiếp tục phát triển mạnh tại Mỹ bao gồm chủ yếu là
trường phái “kinh tế chính trị”
lịch sử, toàn cầu hóa liên kết chặt chẽ nhất với
công trình nghiên cứu của Eric Wolf
(1982) và Sidney
Mintz (1985). Liệu
những người theo phương pháp tiếp cận này kết hợp thành công đời sống và suy nghĩ của
con người bằng xương bằng thịt hay không
là chủ đề của cuộc tranh luận đáng
kể trong nhân học (ví dụ, Ortner 1984).
Nhưng rốt cuộc, một xu
hướng khác cháy âm ỉ trong những năm 1960 và 1970 lại dẫn đến thay đổi nền tảng
và lâu dài trong nhân học nói chung và trong nhân học kinh tế nói riêng: nhân
học biểu tượng (symbolic anthropology[12]) và nhân
học diễn giải (interpretive anthropology). Một số nguyên lý chính của phong
trào này bao gồm chống thực chứng (anti-positivism); nhấn mạnh sự thông hiểu
nhân văn các quan điểm chủ quan của người trong cuộc; ưu tiên “mô tả đậm đặc”
(“thick description”) của thuyết biểu tượng (symbolism) và ý nghĩa (Geertz 1973)
qua lời giải thích khoa học hoặc chức năng; nghi ngờ lý thuyết lớn, so sánh; xem
phân tích văn hóa như là một bản dịch văn bản (textual translation) giữa thế
giới văn hóa này và thế giới văn hóa khác; và tìm kiếm cảm hứng từ phê bình văn
học và triết học hơn là khoa học. Tôi nghĩ lý do chính khiến cho sự phát triển
này không có tác động ngay lập tức đến nhân học kinh tế đó là những người thực
hành (practitioners) chính - chẳng hạn như David Schneider, Victor Turner, và
(đặc biệt là) Clifford Geertz - không bao giờ tự nhận là nhà nhân học kinh tế,
và công trình của họ lúc đầu chỉ có mối quan hệ gián tiếp tới mối quan tâm cốt lõi
của các nhà nhân học kinh tế. Mặc dù hai công trình của Geertz từ đầu những năm
1960 (Agricultural Involution [1963a]
và Peddlers and Princes [1963b]) rõ
ràng là về chủ đề kinh tế, chúng thường không được bao gồm trong các truyền
thống substantivist, formalist, evolutionist, hoặc Marxist - tất cả trường phái
này đều còn tồn tại vào thời điểm đó. Vị thế gần giống như Chúa của Geertz
trong nhân học được bắt đầu với The
Interpretation of Cultures năm 1973. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng các
công trình nghiên cứu trước đây của ông, mặc dù được đánh giá cao, được coi là
khó hiểu bởi nhiều nhà nhân học - cả kinh tế
và ngược lại - trong những năm 1960.
Lý
do chính của phản ứng khó hiểu này
là do các công trình nghiên cứu diễn giải dường như không khớp với bất kỳ mẫu hình (paradigm) lý thuyết đã được biết đến nào. Chúng rõ ràng là chống thực
chứng trong giai đoạn mà hầu hết các nhà nhân học vẫn nghĩ mình là
nhà khoa học. Chúng dường như rất nhiều nhằm thay thế trường phái tổng thể chiết trung (eclectic
holism) bằng quan điểm nhỏ hơn, hẹp hơn, và duy tâm
hơn (idealist) về văn hóa (Harris
1979). Nhưng có một
yếu tố khác bổ sung vào sự
tiếp nhận ban đầu thờ ơ này – và điều mà tôi muốn phát triển – đó là những nhà nhân học biểu tượng và diễn giải
như Geertz rõ
ràng đã chỉ định lý thuyết gia tiên
phong - người có ảnh hưởng tuy nhỏ nhưng đáng ngạc nhiên vào sự
phát triển của nhân học Mỹ và
được xem là một nhân
vật không liên quan gì lắm: Max
Weber. Những lý do giải thích sự ảnh hưởng khiêm tốn của
Weber lên ngành này là rất phức tạp và sẽ đưa tôi đi quá xa trong bài báo này. Tuy
nhiên, đủ để có thể nói, chính Weber bày tỏ nỗi hoài nghi về khả năng của con
người trong một xã hội có thể “thông hiểu” (“understand”) (theo từ tiếng Đức Verstehen) tâm trí của con người ở những
xã hội hoàn toàn khác biệt. Ngoài ra, Weber đã không để lại bất kỳ nền tảng học
thuật hoặc chính trị nào – như Karl Marx, Emile Durkheim, hoặc Boas đã làm – nhằm
duy trì tầm nhìn của mình sau khi qua đời. Nhưng Geertz, cũng như David
Schneider, không được đào tạo trong khoa nhân học, một cách chính xác, mà trong
một khoa kỳ quặc (và bây giờ không còn tồn tại) Quan hệ Xã hội (Social
Relations) tại Harvard, được thành lập bởi Talcott Parsons và đã mang những nhà
nhân học, xã hội học, khoa học chính trị, và tâm lý học (kinh tế học rõ ràng là
có vai trò ngoại vi hơn) lại với nhau. Marx vắng mặt trong khoa này, Durkheim
có vai trò quan trọng, nhưng Weber mới là vị tiền bối ưu việt và tôn kính. Không
có gì nghi ngờ, phiên bản Geertz của Weber trong những công trình nghiên cứu đầu
tiên mang màu sắc Parson rất riêng (Kuper 1999).
Weber và hậu duệ
Đầu tiên, chúng ta hãy xem qua một vài sự kiện về Weber và mối quan hệ của ông với kinh tế học. Bản thân Weber được đào tạo về luật và kinh tế và, trong phần lớn cuộc đời mình, ông là một giáo sư kinh tế. Nguồn gốc và động lực của chủ nghĩa tư bản phương Tây là nỗi ám ảnh lớn trong công trình nghiên cứu (corpus) rộng lớn và đa dạng của ông. Công trình nổi bật nhất thời gian sau này của ông là Economy and Society [1921-22] (1968), và các bài giảng sau này được biên soạn và xuất bản sau khi ông mất mang tên General Economic Hisotry (1981) [4]. Xem xét những sự kiện này, cũng như sự sáng chói của hệ thống lý thuyết được xây dựng trong thời gian dài của ông, tôi cảm thấy sự vắng mặt gần như tuyệt đối của Weber trong kinh tế hiện đại thậm chí còn đáng buồn hơn vị trí bên lề của ông suốt sáu thập niên trong ngành nhân học Mỹ. Tuy bản thân Weber là người đề xuất trường phái lịch sử chống thực chứng, chống thuyết cận biên (anti-marginalist[13]) trong Methodenstreit, thế nhưng, ông lại là một người có ý kiến tuy bất đồng nhưng hòa giải trong những vị trí đó. Một trong những bài viết ban đầu của ông [1903] (1975) là phê bình các thành viên khác của trường phái lịch sử vì đã duy tâm (idealism) quá mức và đã bỏ qua những thấu hiểu về thuyết cận biên. Thái độ chống đối của ông luôn tập trung vào những ai muốn kinh tế học trở nên hoàn toàn định lượng và formal hơn là những ai muốn kết hợp các mô hình formal vào phân tích kinh tế. Trong thực tế, học thuyết của ông về các mẫu lý tưởng (ideal types) đã được phát triển nhằm cung cấp các quy tắc rõ ràng và nhất quán cho việc xây dựng một thế giới vô cùng phức tạp. Bản thân Weber đã tận dụng nhiều nguyên tắc của thuyết cận biên, và sự tán đồng của ông đối với cá nhân luận (methodological individualism) cũng được biết đến.
Nhưng Weber
cho rằng “hành động xã hội có ý nghĩa” (“meaningful social action”) là quá phức
tạp và đa dạng để có thể tinh giản thành các tiên đề phổ quát, đơn giản và thành
một giả định tiền đề ưu tiên quan hệ nhân quả. Ông tin rằng – cùng với đồng
nghiệp như những người theo trường phái tân Kant như Wilhelm Dilthey và Wilhelm
Wundt – sứ mệnh của khoa học nhân văn (human sciences) là thông hiểu hành động
xã hội có ý nghĩa này và rằng sự thông hiểu như vậy đòi hỏi phải có một phương
thức phân tích diễn giải có chút quan hệ tới các thủ tục của khoa học tự nhiên.
Tối đa hóa một cách duy lý (rational maximixation), bản thân nó là một mẫu lý tưởng, trong khi hữu ích khi viện dẫn nó như một tiêu chuẩn mà chúng ta
có thể so sánh hành vi thực tế của con người, thì đừng bao giờ vật chất hóa hoặc
giả định nó trong bất kỳ trường hợp cụ thể nào. Theo quan điểm của Weber, con
người (human actors) có lúc hướng về lợi ích (interest), có lúc hướng về giá trị
(value), có lúc hướng về truyền thống (tradition), nhưng thường xuyên hướng về
một kết hợp phức tạp của cả ba thứ vừa nêu. Sự cân bằng có thể được xác định chỉ
bằng kinh nghiệm (empirical) cho từng trường hợp cụ thể, chứ không phải tự nó
đã đúng (mà ko cần chứng minh). Những so sánh cho chúng ta thấy rằng động cơ
thúc đẩy con người tồn tại trong bối cảnh thể chế, văn hóa, và biểu tượng, và
chính chúng nên là tiêu điểm của bất kỳ khoa học xã hội thật sự nào.
Một khía cạnh
quan trọng khác của tư tưởng Weber – và là khía cạnh phân biệt rất rõ giữa những
người theo trường phái tân Weber đương đại với những người theo trường phái tân
Marxist – là sự nhấn mạnh của Weber về tính trung lập giá trị của các ngành
khoa học xã hội. Trong bài tiểu luận nổi tiếng của ông, Science as a Vocation (Gerth và Mills 1946), Weber lập luận rằng, là
con người, chúng ta có quyền và trách nhiệm hành động theo niềm tin đạo đức và
chính trị của chúng ta; là nhà khoa học xã hội, chúng ta không chiếm vị trí cao
hơn và uy tín đạo đức của chúng ta không vượt trội hơn so với công dân. Kết quả
của phân tích và nghiên cứu khoa học xã hội là kiến thức cao cấp có thể thông
báo tranh luận công khai, nhưng không phải là giá trị cao cấp cho phép chúng ta
thiết kế các xã hội tốt hơn. Weber là đối thủ của Marx về mặt khái niệm – sự thống
nhất của lý thuyết và thực hành (praxis), và hầu hết những người theo trường
phái tân Weber ngày nay tin rằng các nhà khoa học xã hội bắt buộc phải tách cam
kết chính trị ra khỏi nghiên cứu ở mức độ lớn nhất có thể (Billig 1999). Chính
trong ý nghĩa này và chỉ ý nghĩa này mà tôi, đã đề cập ở phía trên, cho rằng
cách tiếp cận tân Weber là trung lập về chính trị.
Các bài viết
(corpus) của Weber có phạm vi rộng lớn, đa dạng, và có lúc tự mâu thuẫn. Có nhiều
vấn đề nghiên cứu của Weber mà những người theo trường phái tân Weber bỏ qua hoặc
tranh cãi. Một số ít ngày nay thảo luận về “xu hướng chính” (“master trend”) của
duy lý hóa (rationalization) (và học thuyết này thường bị hiểu sai là mọi việc
đều có mục đích (teleological way)). Nhiều nhà nhân học (ví dụ như Goodell
1995; Goody 1996) chống đối bức tranh mô tả các xã hội châu Á của Weber như là
chưa sẵn sàng cho chủ nghĩa tư bản, và đặc
tính tiêu cực của ông về nông dân bị ràng buộc bởi truyền thống (dù ông ít miệt
thị nông dân hơn so với, chẳng hạn, Marx). Các khái niệm quan trọng “charismatic
authority” và “rational routinization” vẫn đang chờ đợi những công trình nghiên
cứu một cách công phu trong thời đại ngày nay. Và, bởi lý do hiển nhiên, hầu hết
các nhà nhân học mong rằng Weber không bao giờ bày tỏ nghi ngờ ảm đạm như vậy về
khả năng con người ở xã hội này thông hiểu những người trong xã hội khác. Weber,
người dường như vẫn còn sống và gây ấn tượng sâu sắc, ít nhất là trong nhân học
kinh tế, là người mà:
·
Nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu hành động xã hội có ý nghĩa (tức là, biểu tượng) để
(thông) hiểu những động cơ thúc đẩy của con
người.
·
Nhấn mạnh rằng chúng ta
tạo ra các mẫu lý tưởng nhằm cho phép chúng ta phân loại, so
sánh, và đối chiếu các định chế và xã hội và nhằm để chúng ta nhận trách nhiệm
đối với những mẫu lý tưởng đó và không vật chất hóa các khái niệm trừu tượng của
chính chúng ta.
·
Xem các ngành khoa học xã hội giống lịch sử hơn là giống vật lý.
·
Không duy vật cũng không duy tâm và là những người từ chối ưu tiên
quan hệ nhân quả (a prior causal priority) mà ủng hộ cách tiếp cận chiết trung
phức tạp đối với quan hệ nhân quả.
·
Giữ vị trí càng trung lập về đạo đức và chính trị càng tốt khi chúng
ta đang làm công việc khoa học xã hội.
·
Xem hoàn cảnh của con người như là kết quả của lịch sử cụ thể, không
bị điều khiển, và chưa xác định và là người bác bỏ các hệ thống (schemes) lớn và
tổng quát hóa quá mức cách thức lịch sử tiếp diễn.
·
Được dạy rằng chúng ta không phải chia nhỏ tất cả những khác biệt
quan trọng thành loại (class) và nếu mọi người nghĩ rằng địa vị, đảng phái, chủng
tộc và dân tộc là những khác biệt quan trọng, họ có xu hướng hành động như thể
những khác biệt đó là quan trọng.
·
Tập trung mạnh nhất ở nơi giao thoa giữa môi trường thể chế mà
chúng ta tạo ra và các giá trị, đạo đức, và biểu tượng cho phép chúng ta sống
như sinh vật xã hội có tri giác.
Tác
phẩm nổi tiếng nhất của Weber, ít nhất là trong thế giới nói tiếng Anh, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism [1904-1905] (1958), cho
rằng chủ nghĩa tư bản châu Âu
được dự báo dựa
vào sự kết hợp độc đáo và bất ngờ giữa một ma trận
thể chế cụ thể và các giá trị (hay “tinh
thần” (“spirit”)) văn hóa nhất định.
Trong các công trình nghiên cứu tiếp
theo về Ấn Độ, Trung Quốc, và
người Do Thái cổ đại, Weber trình bày các trường hợp tương phản của các tình
huống mà trong đó hoặc môi trường thể chế hoặc môi trường văn hóa không
có lợi cho sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản duy lý. Trong
tất cả những tác phẩm này, ông đã cố gắng đặt mình vào tâm trí của các chủ thể (actors) bản địa đang đối mặt với
các tình huống, niềm tin, và bối cảnh khác nhau. Đáng chú ý nhất, lập luận trung tâm của ông
trong The Protestant Ethic đó là, môi
trường văn hóa trong đó chủ nghĩa
tư bản thời kỳ đầu phát triển hưng
thịnh ở Bắc Âu có nguồn gốc
theo cách mà lúc ban đầu không thực sự liên quan gì tới tiết kiệm, đầu tư, chấp nhận rủi ro,
hay tạo ra lợi nhuận. Trong ý nghĩa thực tế, hệ
thống tạo nên thế giới mà chúng ta gọi là chủ nghĩa tư bản, ít nhất là trong một phần
nào đó, một hậu quả không dự tính (unintended
consequence) của việc thay đổi các giá trị và tín ngưỡng
tôn giáo, đặc biệt nhất, nỗi lo lắng về sự cứu rỗi theo thần học Calvin
và khái niệm “kêu gọi” (“calling”). Những giá trị này đã có một “ái lực chọn lọc” (“elective affinity”) với sự duy
lý kinh tế chủ nghĩa tư bản, không có cách nào để thiết kế chúng nhằm tạo ra hiệu ứng này. Hãy luôn ghi nhớ rằng Weber là lý thuyết gia chiết trung nhân quả khiêm tốn về mặt trí tuệ nhất trong bất kỳ lý
thuyết gia lớn nào. Ông không bao giờ thực hiện, và ông
luôn phủ nhận, sự khẳng định rằng
học thuyết Calvin là nguyên nhân tạo ra chủ
nghĩa tư bản. Bản thân Weber luôn
lấy làm tiếc khi bất cứ ai cũng có thể suy ra cái gọi là “quan điểm mạnh mẽ” (“strong thesis”) này từ công trình
nghiên cứu của ông. Đối với ông, quan niệm về ái lực chọn lọc và sự phát hiện (revelation)
ngạc nhiên về chủ nghĩa tư bản như
là một hậu quả không dự tính trước,
đó là đóng góp to lớn của The Protestant Ethic.[5]
Cách
tiếp cận của Geertz trong các những công trình nghiên cứu đầu tiên của mình có nhiều điểm chung với cách tiếp cận của tiền bối trí tuệ của ông, Weber,
là hoàn toàn có
chủ ý. Đúng là trong khoảng 25 năm
qua, Geertz ngày
càng quay lưng lại với các chủ đề
về kinh tế, và hầu
hết mọi người trong lĩnh vực này đã không còn coi ông là một
học giả đặc biệt phù hợp cho nhân
học kinh tế nữa. Geertz tự cho rằng sứ mệnh
của mình là “giảm sức mạnh của khái niệm văn hóa” (“cutting of the culture
concept down to size”) (1973, 4) và đã nổi tiếng định nghĩa văn hóa (trích dẫn
Weber như sự việc được xem là mẫu mực cho các quyết định sau này của ông) là “các mạng lưới ngữ nghĩa (webs of significance) mà chính con người
bện thành” (1973, 5), qua đó, báo hiệu cho nhiều người về sự bác bỏ của ông đối với phương
pháp tiếp cận tổng hợp, toàn diện hơn, thay vào đó, ông luôn luôn tìm cách đặt
văn hóa trong bối cảnh kinh tế, chính trị, và xã hội (Roseberry 1989; Kuper
1999). Kể từ cuối những năm 1960, mối quan tâm của Geertz có xu hướng nhiều hơn
về thực hành tôn giáo, lễ nghi (ritual), hùng biện (rhetorical), và kịch nghệ (dramaturgy)
hơn là về đời sống kinh tế và chính trị, mặc dù đôi khi ông cũng đi lạc trở lại
các chủ đề kinh tế (Geertz 1979). Công trình nghiên cứu đậm diễn giải của
Geertz liên quan hoặc không liên quan đến nghiên cứu về đời sống kinh tế, ở
chừng mực nào đó, là vấn đề gây tranh cãi và không liên quan đến thảo luận của
tôi ở đây.
Nhưng để làm rõ, tôi sẽ
nêu một công trình nghiên cứu mang màu sắc
“kinh tế” rõ ràng hơn của Geertz vào thời kỳ đầu. Peddlers and Princes được viết vào năm 1963(b) và, mặc dù ngắn ngủi,
là một trong những cuốn sách hay nhất từng được viết trong ngành nhân học kinh tế. Ở đây, so sánh hai thị trấn ở
Indonesia: Modjokuto ở Java và Tabanan ở Bali. Thông qua “mô tả đậm đặc”
(“thick description”[14]) và so sánh địa phương đến từng chi tiết,
Geertz lần lượt bóc
tách các định chế, giá trị và ý
nghĩa gắn liền với nền kinh tế
kiểu khu chợ (bazaar) tự do cho tất cả mọi người ở Modjokuto và nền kinh tế dựa trên mối quan hệ phường hội phân
thứ bậc ở Tabanan. Phân tích của
ông bổ sung các mẫu lý tưởng nhằm mô tả
tiềm năng của mỗi thị trấn để chủ nghĩa tư bản “cất cánh” (theo cách nói thông thường năm 1963, nhưng bây giờ thì không còn).
Cách
tiếp cận của Geertz rõ ràng là diễn giải, nhưng ông cũng có ý định xây dựng các mô hình tự bản chất hóa (self-consciously essentialized) của thực tại nhằm đưa ra các khẳng định
so sánh và tổng quát. Mối quan tâm của
ông không nằm ở bản thân giá trị
và tín ngưỡng, mà nằm ở cách thức
các đặc trưng văn hóa tương tác với các định chế địa phương, quốc gia,
và thậm chí toàn cầu, dẫn đến khác biệt
và thay đổi các động lực của hành vi kinh tế như thế nào. Giống như Weber, Geertz
không bao giờ vật chất hóa văn hóa bằng cách xem văn
hóa như là một thực thể hữu hình lơ lửng trong tâm
trí và cảm nhận của con người (actors)
thực. Thay vào đó, Geertz xem các tín ngưỡng, chuẩn
mực, và biểu tượng - là các bộ phận cấu thành của văn hóa - luôn thay đổi và luôn thương
lượng khi điều kiện thể chế
thay đổi, sự kiện chính trị tiến triển, và các lực lượng thị trường trên thế giới tác động lên các cơ hội sẵn có đối với
cá nhân (individual actors). Văn hóa, đối với Geertz, đó
là sự trừu tượng năng động, nhưng vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ lên hoạt động kinh tế.
Nếu Weber phân tích đan xen tinh thần tư bản với tài liệu lịch sử về việc gia
tăng quyền sở hữu, hợp đồng, ghi sổ kép, chế độ gia công ở nhà (putting out
system), ý thức thời gian, và công ty luật; thì Geertz, cũng như vậy, phân tích
đan xen các giá trị và cảm nhận khác nhau đang chiếm ưu thế trong hai thị trấn Indonesia
với tài liệu lịch sử về môi trường thể chế khác nhau mà trong đó người buôn kẻ
bán (commercial actors) hoạt động. Nếu có một nét đặc trưng nhất trong phương
pháp tiếp cận Weber và Geertz về đời sống kinh tế thì đó là sự tập trung vào kết
nối quan trọng (nexus) giữa các định chế (được xem xét ở nhiều cấp độ) và văn
hóa (được hiểu theo cách thức năng động và không vật chất hóa này). Người dân ở
các xã hội phi tư bản, ở một mức độ đáng kể nào đó, được xem như là theo đuổi “lợi
ích”, nhưng nội dung và bối cảnh của những lợi ích đó trong bất kỳ trường hợp cụ
thể nào thì thường là đáng ngạc nhiên, và thông thường là phức tạp, và nói
chung đó là trọng tâm của phân tích.
Như đã nói, mối quan
tâm của Geertz về các chủ đề kinh tế đã suy yếu sau những năm 1960, tuy vậy, ông
vẫn là đại diện trung gian quan trọng giữa Weber và nhân học kinh tế tân Weber
đương đại. Ngoài sự trộn lẫn những ảnh hưởng địa phương với ảnh hưởng khu vực
và toàn cầu của Geertz, tác động lớn nhất của ông là làm sống lại khái niệm biểu
tượng, với trọng tâm là ý nghĩa, và năng động của nền văn hóa đã được nhấn mạnh
bởi Weber và những người khác trong những năm đầu của thế kỷ 20 nhưng đã chấm
dứt bởi một khái niệm “mô hình tổng” (“total pattern”) (hoặc “siêu hữu cơ” (“superorganic”))
rộng hơn, tĩnh hơn. Khái niệm trọng
tâm là ý nghĩa và năng động này đã trở thành đặc trưng nổi
bật của phương pháp tân Weber. Cách tiếp cận này không – hay nói đúng hơn là không thể – theo dõi thành một dòng liên tục cho tới Weber được. Nhưng
Geertz lấy cảm hứng từ sự hồi sinh của mối quan tâm trong Weber trong nhân học, và
kể từ đó, nhiều nhà nhân học kinh
tế đã sử dụng các yếu tố của
phương pháp và cách tiếp cận rất riêng của Weber (tức là, không lọc
qua Geertz) để giải quyết các mối quan tâm đa dạng. Nhưng, như đã
nói trước đó, Weber là một nhà tư tưởng phức
tạp và mâu thuẫn. Các học giả
đương đại khác nhau đọc Weber theo cách khác nhau và chọn những thứ khác nhau từ phương pháp của ông để
áp dụng cho công trình nghiên cứu của mình. Cách tiếp cận tân
Weber, dù là cách tiếp cận tương đối đồng nhất, đang
trở nên đặc biệt hơn mỗi ngày,
nhất là khi so sánh với cách tiếp cận
tân Marxist vẫn
đang chiếm ưu thế. Sự hồi sinh này của cách tiếp cận
tân Weber được
minh họa bởi ba công trình nghiên
cứu tương đối gần đây như sau.
Việc
thường sử dụng thuật ngữ “kinh tế chính trị” trong tựa đề quyển Political
Economy of Mountain Java của Robert Hefner (1990) là một
thách thức đối với các nhà nhân học tân Marxist
- những người đã chiếm lấy thuật ngữ này hoàn toàn cho riêng mình. Quyển sách của Hefner rõ
ràng là kinh tế chính trị phi Marxist. Trong
“phương pháp tiếp cận phi kinh tế đối với sự thay đổi kinh tế” của ông (20), Hefner
đặt câu hỏi cho các khái niệm như “tự
ngã” (“self”), “lợi ích” (“interest”) và
“gia cấp” (“class”) (một lần nữa, được xem là các mẫu lý tưởng) xuất hiện dễ dàng trong
các tài liệu tân cổ điển hay
chủ nghĩa Marx. Ông cho thấy các giá trị và biểu tượng cốt lõi về tính cá nhân
(personhood) và nghĩa vụ xã hội
đã tương tác với sự thay đổi về thể chế và chính trị ở vùng cao nguyên Tengger ở Java và ở Indonesia nói chung như thế nào. Hefner quan tâm nhiều đến
cách mà người dân vùng cao Java
“trải nghiệm giai cấp” (“experienced class”) (23) trong suốt những biến
đổi lịch sử hơn là quan tâm đến các điều kiện (được gọi
là) “khách quan” đang thay đổi của giai cấp. Theo phong cách
Weber thật sự, ông đan xen
phân tích “hiệu ứng đa nguyên” (“pluralistic effects”) của giai cấp
với “hiệu ứng đa nguyên” của các đảng
phái và lòng trung thành phi giai
cấp – dựa trên địa vị, chính trị, khu vực, dân tộc, và tôn giáo – coi là quan trọng không kém đối với người dân (actors) ở vùng xuôi và
thường xuyên tác động đến phân chia
giai cấp.
Với phương
pháp tiếp cận hoàn toàn là tân Weber, Hefner tự nhận ông đứng ở giữa giữa một
bên là kinh tế chính trị tập trung vào các lực lượng, cơ cấu, và phương thức sản
xuất và một bên là khoa học xã hội diễn giải tập trung vào khơi gợi thực tại chủ
quan. Mặc dù quyền lực (power) ở các dạng thức đa dạng không phải lúc nào cũng được
nhận thức (hay nhận thức một cách đúng đắn) bởi các chủ thể (actors) mà dựa vào
đó quyền lực hoạt động, điều này không làm giảm thực tại và tầm quan trọng cơ bản
của quyền lực. Mặt khác, nhận thức của những chủ thể (actors) đó – được khơi gợi
từ phân tích văn hóa và diễn giải – xác định trong phạm vi rộng những suy nghĩ
và hành vi của con người tạo nên sự thăng trầm của dòng chảy lịch sử. Cả hai
khía cạnh của sự tồn tại con người (human existence) – các lực lượng chính trị
và kinh tế “khách quan” ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân và các ý nghĩa chủ
quan mà dựa vào đó người dân hành động – phải được kết hợp với tài liệu thấu
đáo về thay đổi lịch sử và sự tồn tại xã hội (social existence). Vì mọi người
hành động theo cách hiểu chủ quan của riêng mình, chẳng có vị trí quyền uy hay
địa vị cao nào mà từ đó chúng ta có thể đánh giá rằng những con người mà chúng
ta đang nghiên cứu bị đánh lừa bởi “nhận thức sai lầm” (“false consciousness”).
Trong
khi Roger Janelli (1993) có thiên hướng trích dẫn các lý thuyết gia đương đại như Michel Foucault, Pierre
Bourdieu, và Anthony
Giddens (bản thân họ cũng chịu ảnh hưởng
nhiều bởi Weber) hơn là trích dẫn Weber, thì nghiên cứu dân tộc ký của
ông về biệt hiệu chaebol (tức là, tập đoàn kinh doanh) ở Hàn Quốc là một minh họa hoàn hảo cho
góc nhìn tân Weber. Sử dụng quan sát có tham giavà phỏng vấn sâu (tức là, Verstehen
- tiếng Đức, có nghĩa là ‘understand
in a deep way’, ‘thông hiểu’), Janelli trình bày phân tích “đậm đặc” về tổ chức thể chế và kết cấu
văn hóa của chaebol
như là một hiện tượng địa phương chịu ảnh hưởng bởi sự phát triển kinh tế và văn hóa
của quốc gia cũng như toàn cầu, và ông đan
xen các mức độ khác nhau này với sự
tinh tế tuyệt vời. Ông tuyên bố trước rằng ý định của ông là kết hợp
cách tiếp cận kinh tế chính trị với cách tiếp cận biểu
tượng/văn hóa, và ông đã hoàn thành mục tiêu này một cách đáng ngưỡng mộ. Ông cho thấy các ngành và các cá nhân khác nhau trong tổ chức tận dụng nguồn tài nguyên biểu tượng hiện vẫn còn theo các cách sáng tạo, thường là phục vụ lợi ích và trong quá trình này các
kết cấu văn hóa được thực hiện và tái thực
hiện không ngừng như thế nào. Ông cho thấy tổ chức chính thức của chaebol và
các quan hệ quyền lực đòi hỏi bởi tổ chức đó ảnh
hưởng và tới lượt nó bị ảnh hưởng bởi các kết cấu biểu tượng và định hướng giá trị như
thế nào (điều này gợi nhớ đến phân
tích của Weber về cách mà các giá trị và ý tưởng được sử dụng để thống trị, hợp
pháp, và cũng chống lại các trật tự thể chế cụ thể).
Nghiên cứu thực
nghiệm phong phú của Janelli chứng minh cho sự vô ích của những khái niệm nhị
phân đơn giản như structure - agency, lợi ích vật chất - giá trị, tìm kiếm lợi
nhuận trừu tượng - hướng về lợi ích cá nhân và gia đình, và thị trường tự do -
văn hóa. Ông luôn ý thức trách nhiệm của mình là người diễn giải và trình bày văn
hóa Hàn Quốc, và ông viết theo cách phản xạ (reflexively) về vị trí nhạy cảm của
mình trong chaebol. Nghiên cứu của
ông đậm tính văn hóa, nhưng quan điểm của ông về văn hóa là năng động, mang
tính biểu tượng, và chiến lược. Và trong khi trọng tâm chính là ở phạm vi vi
mô, ông không e ngại khi so sánh chaebol
với các doanh nghiệp ở các nước khác nằm tạo điều kiện cho sự thông hiểu (bằng
cách sử dụng “các mẫu lý tưởng”). Janelli vẫn giữ trung lập chính trị trong
nghiên cứu của mình, một công trình nghiên cứu như vậy rất có ích trong việc mang
đến cho những người ở phương Tây một khái niệm đầy sắc thái hơn (bị bóp méo mạnh)
về tổ chức kinh doanh Đông Á và văn hóa Á Đông nói chung.
Công
trình nghiên cứu của tôi về ngành đường ở Philippines – đặc biệt là các “ông trùm đường”
(“sugar barons”) giàu có – cố gắng
thể hiện các nguyên tắc của phương pháp tiếp cận tân Weber này (Billig
1991, 1992, 1993,
1994) [7]. Đường đã từng là cây trồng thuộc địa cổ điển
tại Philippines. 100%
sản phẩm được xuất khẩu sang Mỹ, và chủ đồn điền là những
nhân vật chính trị quyền lực nhất trong cả nước. Sau
sự sụp đổ ồ ạt trong những năm 1980, ngành công nghiệp này tồn tại
ngày nay như một tay chơi ngoại vi và tương đối nhỏ (ngoại trừ thực tế là ngành này đã sử dụng khoảng hai triệu người). Ân sủng xã
hội, tiêu dùng phô trương, và âm mưu chính trị là các đặc trưng của giới tài
phiệt ngành đường trong quá khứ mà ngày nay đầy sự khinh miệt hơn là sự ngưỡng
mộ của người dân thường Philippines. Trong nền kinh tế mà sự thống trị của giới
tài phiệt nông nghiệp ở nông thôn đang nhanh chóng nhường chỗ cho các lợi ích công
nghiệp, thương mại, tài chính ở đô thị, chủ đồn điền đường lâm vào cảnh nợ nần,
cách ly khỏi nhịp điệu phát triển của xã hội, và trên bờ vực của sự sụp đổ tài
chính trong một môi trường mà trong đó tính hiệu quả, giá trị gia tăng, và di
chuyển lên tầng lớp xã hội cao hơn và giàu có hơn là những câu nói thông dụng
mới. Một số con cái
của chủ đồn điền đang theo đuổi nghề nghiệp, một
số đang đa dạng hóa sang các lĩnh
vực kinh doanh mới, và một số di cư, nhưng phần nhiều là đang chờ đợi để đạt được những
gì mà họ muốn, đó là việc khôi phục
không thể tránh khỏi của ngành đường như
là ngành công nghiệp ưu việt
của quốc gia. Các giá trị và ý nghĩa
mới đặc trưng cho đời sống kinh tế và chính
trị ở quốc gia hiện đại có vẻ
mang tính quá nước ngoài – quá “Trung
Quốc” – đối với những chủ đồn điền/trang trại (hacienderos) và họ không thể tin được rằng đồng hương của họ lại
có thể đặt rất nhiều niềm tin
vào giới luật sai
lầm và nguy hiểm như vậy. Vì vậy,
mối quan hệ giữa môi trường thể chế
đang thay đổi ở các cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu và những giá trị và biểu
tượng văn hóa đang thay đổi này là
trọng tâm chính của nghiên cứu đang
thực hiện của tôi. Điều này
đòi hỏi phải xem xét các quan điểm và ý kiến của giới tài phiệt một cách nghiêm túc và xử lý
các giá trị và chuẩn mực của họ với thái độ trọng thị hơn là miệt thị (Billig 1999).
Rốt
cuộc thì những chủ đề nào đã nối kết Geertz, Hefner, Janelli
và tác giả bài viết thành một “trường phái” mới nổi của nhân học kinh
tế tân Weber? Cả bốn tác giả đều tìm cách
làm sáng tỏ và mô
tả ý nghĩa, sự thông hiểu,
và động cơ chủ quan của những chủ thể (actors)
tại nơi sinh sống của họ. Tất cả các tác giả đều xem sự thông hiểu biểu tượng và văn hóa này là các
nguồn lực thường được dùng với mục đích thúc đẩy hay cưỡng lại các “lợi ích” mà bản thân
chúng được kết cấu văn hóa trong một chuỗi vô tận
các mối quan hệ nhân quả tương tác và tương hỗ. Văn hóa không phải là thứ
hiện ra lờ mờ, tĩnh tại. Bản thân
văn hóa luôn luôn mở đối với thương lượng, thay đổi và chủ thể riêng lẻ (individual
agency). Tất cả các tác giả đều xem xét văn hóa trong bối
cảnh chính trị và kinh tế ở phạm vi địa phương, khu vực và toàn cầu, nhưng đánh
giá cao các sự kiện và các tác động vĩ mô luôn luôn được nhận thức, sáng tạo,
và hành động trong phạm vi ý nghĩa được kết cấu văn hóa. Tất cả
các tác giả đều tập trung vào mối quan hệ giữa các thể chế văn hóa và luật pháp,
tổ chức, và chính trị, và tất cả đều xem các mối quan hệ này là tương hỗ, tương
tác, và năng động. Tất cả các tác giả đều tự ý thức tạo
ra các khái niệm trừu tượng (nghĩa là, các mẫu lý tưởng) tạo điều kiện để xem xét
các đối tượng dân tộc ký của họ dưới góc độ so sánh. Tất cả
các tác giả đều thảo luận về những khác biệt xã hội quan trọng của các chủ thể
(actors) và không tinh giản những khác biệt này thành giai cấp kinh tế. Tất cả các tác giả đều cố gắng duy trì vị trí trung lập chính
trị và mô tả các ý tưởng và giá trị của những người có quyền lực cũng như không
có quyền lực theo cách thức tế nhị và tinh tế. Tất cả các
tác giả đều quan tâm đến những nơi chốn mà “chủ nghĩa tư bản” hoặc xâm nhập
nhanh chóng hoặc biến dạng thành hình thức mới. Và, cuối cùng, tất
cả các tác giả đều tập trung vào sự tương tác giữa chủ nghĩa tư bản toàn
cầu và văn hóa và các định chế địa phương. Tôi nghĩ rằng Weber sẽ đồng ý với những
nhận xét này.
Một số kết luận
Nhân học, như tôi đã đề cập trước đó, có lịch sử lâu dài về cách tiếp cận đặc thù (particularism) và hiện thực (realism) với cuộc sống xã hội của con người. Điều này cũng dễ hiểu bởi đặc điểm độc đáo của ngành này là nhằm đi ra ngoài xã hội và thế giới thu hẹp của chúng ta và xem xét kinh nghiệm của con người với cái nhìn toàn diện và so sánh hơn. Lý thuyết formal có vẻ rất hiệu quả khi áp dụng cho các xã hội mà trong đó trao đổi thị trường chiếm ưu thế nhưng lại có vẻ thất bại khi áp dụng cho vòng đeo kula ở đảo Trobriand hoặc ngày lễ tặng quà (potlatch) của Kwakiutl. Và lý thuyết formal có thực sự cung cấp tài liệu đầy đủ về đời sống kinh tế trong xã hội định hướng thị trường hay không - đây chính là mối nghi ngờ của những ai có quan điểm toàn diện và so sánh. Nhưng quan điểm nhân học không cần phải dẫn đến – như nó thường xuyên – sự đối nghịch với tất cả các tổng quát hóa hay lý thuyết. Tổng quát hóa có thể được thực hiện, nhưng với sự khiêm tốn và thận trọng cao độ. Công trình nghiên cứu của tôi về Philippines, ví dụ, cung cấp và được cung cấp bởi sự thông hiểu của tôi về quá trình mà giới tài phiệt thành thị chiếm chỗ giới tài phiệt nông thôn ở các nơi khác và tại những khoảnh khắc khác của lịch sử. So sánh cụ thể – chẳng hạn như những so sánh được minh họa bởi Geertz và Weber – là rất có giá trị trong việc cung cấp tài liệu chi tiết dẫn đến các nguyên tắc và giả thuyết lý thuyết ở mức thấp và vừa, và từ đó có thể bổ sung nhiều cho kinh tế học theo nghĩa rộng. Các nghiên cứu không hợp thời hiện nay về các hệ thống kinh tế có thể so sánh được, giờ đã có thể được hồi sinh thành góc nhìn năng động hơn, chi tiết hơn, và so sánh triệt để hơn, tức là, xem các quá trình của sự thay đổi liên tục là chủ đề chính và kết hợp thông tin chỉ từ các kiểu xã hội mà nhà nhân học thích nghiên cứu. Góc nhìn theo trường phái tân Weber rất phù hợp để cung cấp nền tảng cho nhân học kinh tế so sánh như vậy và có thể xuất hiện bên cạnh kinh kế học thể chế, kinh tế học Marxist, kinh tế học theo trường phái Áo, kinh tế học hậu Keynes và, vâng, thậm chí là kinh tế học tân cổ điển như là một đóng góp tích cực đối với nỗ lực chung của chúng tôi.
Khái niệm về văn
hóa là trọng tâm của phương pháp tiếp cận được trình bày chi tiết ở đây. Tôi nhận
ra rằng, tất nhiên, một phần rất lớn các nhà kinh tế sẽ tiếp tục bỏ qua hoàn
toàn văn hóa hoặc viện dẫn văn hóa mà không thực sự kết hợp nó vào các phân
tích của họ. Đối với họ, văn hóa đại diện cho cái gì đó có độ nhiễu, không quan
trọng, không duy lý, và lộn xộn mà chúng ta phải giữ cho nó không đổi nếu chúng
ta hy vọng tiếp tục thực hiện phân tích formal. Nhưng đã có một vài nhà kinh tế
trong thập niên qua đã “phát hiện” văn hóa và nghĩ rằng nó quan trọng (Harrison
1985; North 1990; Sowell 1994; Harrison và Huntington 2000). Thật không may,
nhiều người trong số họ – những người có xu hướng chấp nhận quan điểm khá cổ hủ
về văn hóa như là “điều gì đó” ổn định, có trước, và tách rời từng mảng – đã khiến
những cá nhân đó bị gài bẫy trong nanh vuốt mạnh mẽ của nó và cố chấp không đổi
cho đến vĩnh viễn. Quan điểm này chỉ trở thành cách mới, phần nào sáng suốt
hơn, giữ cho văn hóa liên tục (Billig 1994). Quan điểm năng động và tương tác đặc
trưng của nhân học kinh tế tân Weber có thể dùng làm liều thuốc giải độc mạnh đối
với kiểu suy nghĩ đơn giản như vậy, và nó có thể cung cấp mô hình để văn hóa có
thể được đưa vào phân tích kinh tế.
Nếu
cho rằng Max Weber là người luôn khiêm tốn mẫu mực
thì chúng ta, những nhà nhân học kinh tế tân Weber cần
thiết phải khiêm tốn trước khi yêu
cầu sự chú ý của các nhà kinh tế
học. Tôi chắc chắn rằng hầu hết
các nhà kinh tế học sẽ xem phương pháp tiếp cận này là chẳng liên
quan gì đến những gì họ làm và
tiếp tục xây dựng mô hình dựa trên
các tiên đề phổ quát. Đối với một số người, cách
tiếp cận này dường như đủ hợp lý nhưng
chủ đề thì nhàm chán. Nhưng đối với những người theo trường phái thể chế và những người khác ở bên mang tính lịch
sử, quy nạp, và hiện
thực hơn của sự chia cắt, kiến thức và công nhận lớn của phương pháp ngày càng tăng này trong nhân học kinh tế nên
ít nhất phục như là bằng chứng cho thấy có đồng minh trong ngành
mà những ai chia sẻ nhiều khía cạnh của tầm nhìn theo trường phái thể chế về mục đích và mục tiêu của khoa học kinh
tế. Khi xem chi tiết, nhân học kinh
tế tân Weber gần giống với kinh tế học thể chế.
Ghi chú
1. Mặc dù lập luận của Polanyi về
sự gắn kết của đời sống kinh tế trong văn hóa và xã hội
đã ảnh hưởng sâu rộng và quan trọng, quan điểm của ông (và của Dalton) về văn
hóa là “lối sống tổng thể”
(“total lifeway”) hay lối sống kiểu mẫu thời kỳ đầu
được liên kết với E. B. Tylor vào cuối thế kỷ
19 và trường phái Boas trong nhân học Mỹ
thế kỷ 20. Quan điểm tân Weber là diễn giải,
mang tính biểu tượng, và tập trung vào ý
nghĩa. Quan điểm thời kỳ đầu ngày
nay thường bị cáo buộc là “bản chất”
(“essentialist”) và cấu trúc quá mức
đặc quyền vượt trên cá nhân (individual agency).
Một nhà kinh tế khác mà
công trình nghiên cứu có ảnh hưởng lớn lên nhân học kinh tế là
Ester Boserup (đặc
biệt, năm 1965).
2. Các tài liệu hoàn chỉnh và bền vững hơn trong thời gian gần đây về lý thuyết nhân học văn
hóa có thể tìm thấy ở Ortner
(1984) và Layton
(1997).
Tranh luận nổi tiếng giữa
James Scott (“nền kinh tế đạo đức”) (“moral economy”) và Samuel Popkin (“kinh
tế chính trị”) (“political economy”) trong cuối những năm 1970 và đầu những năm
1980 là biểu hiện tinh tế và hấp dẫn của cuộc tranh luận substantivist-formalist
đã tạo ra sự quan tâm mới tạm thời về nhiều vấn đề. Mặc dù Scott có ảnh hưởng
trong nhân học kinh tế, tôi sẽ không thảo luận cuộc tranh luận này hơn nữa bởi
vì cả hai học giả này là nhà khoa học chính trị và một cuộc thảo luận như thế
sẽ đưa tôi đi quá xa khỏi câu chuyện chính của mình (Scott 1976; Popkin 1979).
3. Claude Meillassoux
(1981) có lẽ là ví dụ sáng suốt nhất của
thể loại này có sẵn
bằng tiếng Anh.
4. Randall Collins (1980, 1986) tập trung vào các khía cạnh nghiêng về trường phái thể chế hơn và ít nghiêng về trường phái duy tâm hơn
trong các tác phẩm ở giai đoạn chín muồi của Weber. Điều này đối lập với truyền thống Mỹ
đang phổ biến – chủ yếu được thành lập
bởi Parsons (nhập môn Weber năm 1947) – xem Weber như liều thuốc giải
duy tâm của Marx.
Từ những bài viết đầu tiên (ví dụ, [1903] 1975)
cho đến cuối đời của mình, Weber lập luận rằng thật
sai lầm khi đóng góp đặc quyền nhân
quả vào ý tưởng hoặc đời sống vật chất.
5. Các tài liệu chuyên ngành thứ cấp và quan trọng về
The Protestant Ethic
là đồ sộ. Nhiều tài
liệu đã chỉ ra những sai sót
về lịch sử, logic, và thực tế trong tài liệu của Weber về hệ tư
tưởng trường phái Calvin, bản chất của chủ nghĩa tư bản, và các
nghiên cứu tình huống so sánh. Những
người khác đã đổ lỗi cho ông vì
sử dụng những ý tưởng của giới thượng lưu và giới tăng lữ Tin Lành làm cơ sở cho
việc đánh giá về tinh thần
tư bản chứ không phải là những ý
tưởng của người lao động và các thương nhân bình thường. Tôi không tranh luận ở đây rằng quan
điểm năm 1904 của Weber về
sự gia tăng của chủ nghĩa tư bản châu Âu là chính xác hay sai lầm. Bản thân Weber cũng đã bày tỏ mối nghi ngại trong lời giới thiệu đối với bản in lại của tất cả các tác phẩm của ông về xã hội học tôn giáo [1922]
(1963). Thay vào đó, tôi đang giải nghĩa và
ủng hộ phương pháp của ông khi phân tích sự thay đổi xã hội và
lịch sử.
6. Thực tế là tôi đã chọn ba
công trình nghiên cứu từ Đông và Đông Nam Á
phản ánh sự quan tâm đặc biệt của
tôi đối với khu vực này chứ không phải
đây là các công trình của những người theo trường phái nhân học kinh tế tân
Weber nói chung.
7. Nghiên cứu của tôi ở Philippines được tài trợ bởi Fulbright Senior
Research Award và một số khoản tài trợ nghiên cứu từ Franklin và Marshall College.
[*] Dịch từ Billig, Michael S., Institutions and Culture: Neo-Weberian
Economic Anthropology, Journal of
Economic Issues, Vol. 34, No. 4 (Dec., 2000), pp. 771-788. http://www.jstor.org/stable/4227610
[*] Các cước
chú (footnotes) là của người dịch.
[1] Sự gắn kết (embeddedness) nhìn chung được
định nghĩa là tập hợp các mối quan hệ xã hội giữa
các chủ thể (actors) kinh tế và phi kinh tế
(cá nhân cũng như các nhóm gồm các cá nhân, có nghĩa là
các tổ chức), mà đến
lượt nó, tạo ra những kiểu hình đặc
biệt của các ràng buộc và động cơ cho hành động và hành vi kinh tế (xem Hess, 2004; Jessop, 2001; Zukin và DiMaggio,
1990). Khái niệm này được đưa ra lần đầu
tiên bởi Polanyi (1944) trong quyển sách “Sự biến đổi vĩ đại” (“The Great Transformation”) của ông,
trong đó từ chối rõ ràng quan điểm mà sau đó chiếm
ưu thế của nền kinh tế được xem
như là “tự nhiên”, cho trước,
tự điều chỉnh và không
thể tránh khỏi trong hình thức, thay
vì lập luận rằng các thị trường
được xây dựng và quản trị dưới
góc độ xã hội. Polanyi cũng phân biệt ba loại trao
đổi kinh tế trong xã hội (đối ứng (reciprocal), tái phân phối (redistributive) và thị trường (market)), mỗi loại đặc trưng
bằng một hình thức khác nhau của độ gắn kết trong các cấu trúc xã hội và văn hóa.
Ý tưởng của Polanyi sau này được nghiên cứu lại và giới thiệu với
khoa học xã hội vào
giữa những năm 1980 bởi Marc
Granovetter trong phản ứng đối với: (i) quan
điểm hạ thấp xã hội (undersocialised) của hành động kinh tế đại diện bởi kinh tế học tân cổ điển mà ‘giả định hành vi
tư lợi hợp lý chịu ảnh hưởng một cách tối thiểu bởi các mối quan hệ xã hội’ (1985, tr.481); và (ii) quan điểm đề cao xã hội
(oversocialised) trong xã hội học hiện đại mà quan niệm
‘mọi người tuân theo lời kêu gọi của
hệ thống các chuẩn mực và giá trị được phát triển dựa trên sự đồng
thuận, chấp nhận là một phần tính cách của cá nhân thông qua xã hội hóa, vì vậy sự tuân thủ
không được xem là gánh nặng’ (tr.
483). Đi theo đến nửa đường, Granovetter thay vì nhấn
mạnh vào tính cụ
thể và liên tục
của các quan hệ xã hội trong đó các chủ thể kinh
tế đang vướng vào, và bên ngoài nó mà sự thông hiểu đầy đủ các hoạt động kinh tế của họ là không thể. Khi làm như vậy,
Granovetter chuyển trọng tâm phân tích độ gắn kết khỏi
sự tập trung ban đầu của Polanyi vào
các nền kinh tế và xã hội trừu tượng sang cá nhân,
các nhóm, các tổ chức và mạng lưới
các mối quan hệ liên cá nhân (Emirbayer và Goodwin,
1994).
http://www.geog.qmul.ac.uk/docs/staff/4519.pdf truy cập 18/6/2015
[2] Inductivism là mô hình truyền
thống của phương pháp khoa học được đóng góp bởi Francis Bacon, người mà vào năm 1620 đã tuyên bố
sẽ lật đổ tư duy được cho là truyền thống. Trong mô
hình Bacon, người ta quan sát tự nhiên, đề xuất một quy luật vừa phải để khái
quát mô hình quan sát, xác nhận nó bởi nhiều quan sát, mạo hiểm với một quy luật
rộng hơn vừa phải, và xác nhận, cũng như vậy, bằng nhiều quan sát hơn, trong
khi loại bỏ những quy luật bị bác bỏ (disconfirmed). Các quy luật phát triển
rộng lớn hơn bao giờ hết nhưng không bao giờ vượt quá đáng kể sự quan sát cẩn
thận và bao quát, trong khi các nhà khoa học lưu giữ các ghi ghép chính xác cho
sự hợp tác. Như vậy giải thoát khỏi những định kiến nhưng trao quyền vượt ngoài
quan sát của một con người đơn độc, các nhà khoa học dần dần phát hiện ra
nguyên liệu và cấu trúc nhân quả của tự nhiên.
https://en.wikipedia.org/wiki/Inductivism truy cập 18/6/2015
[3] Trong xã hội học, nhân học và ngôn ngữ học, cấu
trúc luận (structuralism) là lý thuyết cho rằng các yếu
tố văn hóa của con người phải được
hiểu trong mối quan hệ của chúng với hệ thống hay cấu trúc bao
quát và lớn hơn. Lý thuyết này nhằm phát hiện ra các cấu trúc
làm nền tảng (ẩn) cho tất cả những điều
mà con người thực hiện, suy nghĩ, nhận thức, và cảm nhận. Ngoài ra, như
được tóm tắt bởi triết gia
người Anh Simon Blackburn (1944 - ),
cấu trúc luận là “niềm
tin cho rằng các hiện tượng của đời sống con người không (rõ ràng để có)
thể hiểu được, ngoại trừ thông qua
mối tương quan của chúng. Những mối quan hệ này tạo thành một cấu trúc, và đằng
sau những biến đổi cục bộ trong
các hiện tượng bề mặt là các quy luật bất biến của văn hóa trừu tượng”.
[4] Trường phái
Tân Marxist là một thuật ngữ rộng (loose)
dành để gọi các cách tiếp cận khác nhau trong thế kỷ 20, sửa đổi hoặc mở rộng chủ nghĩa Marx (Marxism) và lý thuyết Marxist (Marxist theory),
thường là bằng cách kết hợp các yếu tố từ
truyền thống trí tuệ khác, chẳng
hạn như: lý thuyết phê bình (critical
theory), phân tâm học (psychoanalysis) hoặc chủ nghĩa hiện sinh (existentialism).
[5]
Ban đầu, thuật ngữ kinh tế
chính trị được dùng để chỉ nghiên cứu về sản xuất (production) và thương mại (trade),
và mối quan hệ của chúng với pháp luật, phong tục, và chính phủ, cũng như với
phân phối thu nhập và tài sản quốc gia. Kinh tế chính trị bắt nguồn từ triết học
đạo đức (moral philosophy). Được phát triển trong thế kỷ 18, nó nghiên cứu nền
kinh tế của các quốc gia, hoặc các chính thể (polities), và do đó, được gọi là “kinh
tế chính trị” (political economy).
Vào cuối thế kỷ 19, thuật ngữ kinh tế học (economics) đã thay thế kinh tế chính trị, trùng với việc xuất bản quyển sách giáo khoa có ảnh hưởng của nhà kinh tế học người Anh Alfred Marshall (1842 – 1924) vào năm 1890. Trước đó, nhà kinh tế học và logic học người Anh William Stanley Jevons
(1835 – 1882), người đề xuất các
phương pháp toán học áp dụng cho
kinh tế, với chủ trương cho rằng kinh tế học nên ngắn gọn và với hy vọng thuật ngữ này sẽ trở thành “tên gọi được công nhận như một môn khoa học”. Quyển sách của Jevons “Lý
thuyết toán tổng quát dành cho kinh tế chính trị” (“A General Mathematical
Theory of Political Economy”) xuất bản năm 1862, theo nhà kinh tế học người Mỹ
Irving Fisher (1867 – 1947), được xem là sự khởi đầu của phương pháp toán học
trong kinh tế.
Hiện nay, kinh tế chính trị không còn là từ đồng nghĩa với kinh tế học nữa mà đề cập đến những vấn đề khác, bao gồm phân tích Marx (Marxian economics),
phương pháp tiếp cận lựa chọn công
(public-choice) ứng dụng bắt nguồn từ trường phái Chicago và
Virginia, hoặc chỉ
đơn giản là những tư vấn của nhà
kinh tế cho chính phủ hoặc
công chúng về chính sách kinh tế nói chung hoặc
về các đề xuất cụ thể. Các tài liệu chuyên ngành (literature) chủ đạo phát triển nhanh chóng từ những năm 1970 đã mở rộng vượt ra ngoài mô hình chính sách kinh tế mà dựa vào đó các
nhà hoạch định tối đa hóa hữu dụng
của cá nhân đại diện để hướng đến việc xem xét các lực lượng chính trị ảnh hưởng như thế nào đến lựa chọn chính sách kinh tế, đặc biệt về những xung đột trong phân phối và các định chế chính trị.
[6] Kinh tế học thể chế (institutional economics) tập
trung vào việc tìm hiểu vai trò
của quá trình tiến hóa và vai trò của các thể chế (institutions)
trong việc định hình hành vi kinh tế.
Mục tiêu ban đầu của nó nằm trong sự phân đôi theo bản năng của nhà kinh tế và xã hội học người Mỹ Thorstein Veblen (1857 – 1929) giữa một mặt là công nghệ và mặt khác
là lĩnh vực “nghi lễ” của xã hội.
Tên gọi và các yếu tố cốt lõi của nó có thể quay ngược lại xem xét ở
bài báo năm 1919 đăng trong tờ American
Economic Review của giáo sư luật
người Mỹ Walton H. Hamilton (1881 – 1958).
Kinh
tế thể chế nhấn mạnh việc nghiên cứu
rộng hơn về các định chế và xem thị trường
là kết quả của sự tương tác phức tạp của các
định chế khác nhau này (chẳng hạn
như cá nhân, công ty, quốc gia, chuẩn mực xã hội). Truyền thống thời kỳ đầu này tiếp tục cho đến ngày nay như là một cách tiếp cận không chính thống hàng đầu
về kinh tế học.
Một biến thể quan trọng là kinh tế học thể chế mới (new institutional
economics) từ cuối thế kỷ 20, trong đó tích hợp các phát triển sau này của kinh tế
học tân cổ điển (neoclassical economics) vào phân tích. Luật và kinh tế học là
một chủ đề lớn kể từ sau ấn phẩm Cơ sở
pháp lý của chủ nghĩa tư bản (Legal
Foundations of Capitalism) của nhà kinh tế học thể chế người Mỹ John R.
Commons (1962 – 1945) năm 1924. Kể từ đó, có cuộc tranh luận sôi nổi về vai trò
của pháp luật (định chế chính thức) đối với tăng trưởng kinh tế. Kinh tế học
hành vi (behavioral economics) là một đặc trưng khác của kinh tế học thể chế
dựa trên những hiểu biết về tâm lý và khoa học nhận thức hơn là các giả định
đơn giản về hành vi kinh tế.
[7] Xã hội học kinh tế (economic sociology) nghiên
cứu nguyên nhân và tác động xã hội của các hiện tượng kinh tế khác nhau. Xã hội học kinh
tế có thể được chia thành thời kỳ
cổ điển và thời kỳ đương đại.
Thời
kỳ cổ điển đặc biệt quan tâm tới tính hiện đại (modernity) và các khía cạnh
cấu thành của nó như duy lý hóa (rationlization), thế tục hóa (secularization),
đô thị hóa (urbanization), sự phân tầng xã hội (social
stratification) v.v. Do xã hội học phát sinh chủ
yếu như là phản ứng (reaction) đối với tính hiện đại của xã hội tư bản (capitalist
modernity), kinh tế học đóng vai trò trong nhiều cuộc điều tra (inquiry) của xã hội học cổ điển. Thuật
ngữ “xã hội học kinh tế” lần đầu
tiên được đặt ra bởi nhà kinh tế học và logic học
người Anh William Stanley Jevons (1835 – 1882) vào năm 1879, sau đó sẽ được dùng trong
các công trình của nhà xã hội học, tâm lý học xã
hội và triết học người Pháp Émile Durkheim
(1858 – 1917), nhà xã hội học, triết học, luật học, kinh tế chính trị
người Đức Max Weber (1864 – 1920)
và nhà xã hội học, triết học và phê bình người Đức Georg Simmel (1858 – 1918) giữa năm 1890 và 1920.
Công trình của Weber về mối quan hệ
giữa kinh tế và tôn giáo và sự “tỉnh ngộ” văn hóa (“disenchantment”
(tiếng Đức: entzauberung), có nghĩa
là duy lý hóa (rationalization) văn hóa và giảm giá trị của chủ nghĩa thần bí
trong xã hội hiện đại) của phương Tây hiện
đại có lẽ mang tính biểu tượng
nhất của cách tiếp cận đặt ra trong thời kỳ cổ điển của xã hội học kinh tế.
Xã hội học kinh tế đương đại có thể bao gồm các nghiên cứu về tất cả các
khía cạnh của xã hội hiện đại đối với các hiện tượng kinh tế; do đó, xã hội học
kinh tế có thể được coi là lĩnh vực giao nhau giữa kinh tế học và xã hội học. Các
chủ đề thường xuyên của cuộc điều tra xã hội học kinh tế đương đại bao gồm
những hậu quả xã hội của trao đổi kinh tế, ý nghĩa xã hội mà chúng có liên quan
và tương tác xã hội mà chúng tạo điều kiện hoặc gây cản trở.
[8] Sự đối lập
giữa mô hình kinh tế substantivist và formalist lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà
sử học kinh tế, nhân học kinh tế, kinh tế chính trị, xã hội học lịch sử và
triết học xã hội người Mỹ gốc Hungary Karl Polanyi trong công trình nghiên cứu The Great Transformation (1944). Ông cho
rằng thuật ngữ “kinh tế học” có hai nghĩa: ý nghĩa hình thức (formal) đề cập
kinh tế học như là logic của hành động duy lý (rational) và ra quyết định, như
là lựa chọn duy lý giữa việc sử dụng thay thế các nguồn lực giới hạn (khan
hiếm). Tuy nhiên, với ý nghĩa thứ hai, ý nghĩa nội dung (substantive), không
phải giả thiết ra quyết định duy lý cũng không phải giả thiết điều kiện khan
hiếm. Nó chỉ đơn giản đề cập đến nghiên cứu về cách con người kiếm sống từ môi
trường xã hội và tự nhiên. Chiến lược sinh kế của xã hội được coi là sự thích
nghi với điều kiện môi trường và vật chất, một quá trình có thể có hoặc không liên
quan đến tối đa hóa hữu dụng (utility maximization). Ý
nghĩa subtantive của “kinh tế học” được nhìn nhận trong ý nghĩa rộng hơn của “economising”
(tiết kiệm?) hoặc “provisioning” (tự cung tự cấp?). Kinh tế học đơn giản là
cách xã hội đáp ứng nhu cầu vật chất của mình. Các nhà nhân học chấp nhận vị
trí substantivist theo hướng thực nghiệm (empirical) vì nó không áp đặt các giả
định theo văn hóa phương Tây lên các xã hội khác, nơi mà các giả định đó có thể
không được đảm bảo. Tuy nhiên, cuộc tranh luận giữa substantivist và formalist không
phải giữa nhà nhân học và nhà kinh tế học mà là cuộc tranh luận học thuật chỉ
giới hạn ở tạp chí Research in Economic
Anthropology. Theo nhiều cách, nó phản ánh các cuộc tranh luận chung giữa giải
thích “etic” và “emic” (đề cập đến hai kiểu nghiên cứu điền dã (field research)
và góc nhìn đạt được; từ bên trong nhóm xã hội (từ góc nhìn của đối tượng) và từ
bên ngoài (từ góc nhìn của người quan sát)) theo định nghĩa của Marvin Harris
trong nhân học văn hóa của thời kỳ này. Những người ủng hộ chính của mô hình
substantivist là George Dalton và Paul Bohannan. Formalists như Raymond Firth
và Harold K. Schneider khẳng định rằng mô hình kinh tế học tân cổ điển có thể
được áp dụng cho bất kỳ xã hội nào nếu có sự điều chỉnh thích hợp, cho rằng đó
là nguyên tắc có giá trị phổ quát.
[9] Thuyết chức năng cấu trúc (structural
functionalism), hoặc đơn giản gọi
là thuyết chức năng (functionalism), là cơ sở cho việc xây dựng
lý thuyết xem xã
hội như một hệ thống phức tạp mà các bộ phận làm việc với nhau để thúc đẩy sự
thống nhất và ổn định.
Cách tiếp cận này nhìn xã hội theo hướng vĩ mô, đặt trọng tâm rộng
trên các cấu trúc xã hội định hình xã hội như một toàn thể, và
tin rằng xã hội đã phát triển như cơ thể sinh vật. Cách tiếp cận này sẽ xem xét cả cấu trúc xã hội và chức năng xã hội. Thuyết
chức năng xử lý xã hội như một toàn thể theo chức
năng của các yếu tố cấu thành của
nó; cụ thể là chuẩn mực, phong
tục, truyền thống, và các định chế.
Tương tự, được phổ biến bởi Herbert Spencer, cho rằng
các bộ phận này của xã hội như là “cơ quan” hoạt động hướng tới chức năng đúng đắn của “cơ thể” như một tổng thể. Trong các
thuật ngữ cơ bản nhất, nó chỉ đơn giản là nhấn mạnh “nỗ lực để gán cho, một
cách chặt chẽ nhất có thể, mỗi
tính năng, phong tục, hoặc
thông lệ, tác động của nó lên chức năng của hệ thống
được cho là cố kết và ổn định”. Đối với Talcott
Parsons, “thuyết chức năng cấu trúc”
mô tả một giai đoạn cụ thể trong quá trình phát triển phương pháp luận
của khoa học xã hội, chứ không phải là một trường
phái cụ thể của tư tưởng. Cách tiếp cận theo thuyết chức năng cấu trúc là một phân tích xã hội học vĩ mô (macrosociological analysis), với trọng tâm
rộng trên các cấu trúc xã hội mà định hướng xã
hội như một tổng thể.
[10] Trong kinh tế
học, thuật ngữ microfoundations đề cập đến phân tích kinh tế vi mô về hành vi
cá nhân như hộ giá đình hay doanh nghiệp nhằm củng cố lý thuyết kinh tế vĩ mô
(Barro, 1993, Glossary, p.594)
[11] Structural
Marxism là cách tiếp cận triết học Marx dựa trên trường phái cấu trúc
(structuralism), ban đầu được kết hợp với công trình nghiên cứu của triết gia
người Pháp Louis Althusser (1918 – 1990) và các học trò của ông. Nó có tầm ảnh
hưởng tại Pháp trong những năm 1960 và 1970, và cũng ảnh hưởng đến các triết
gia, nhà lý thuyết chính trị và nhà xã hội học bên ngoài Pháp trong những năm
1970.
[12] Symbolic
anthropology, hay rộng hơn symbolic and interpretive anthropology, là nghiên cứu
biểu tượng văn hóa và cách thức diễn giải những biểu tượng đó nhằm đạt được sự
thông hiểu hơn đối với một xã hội cụ thể. Nó thường được xem là đối nghịch với
trường phái duy vật văn hóa (cultural materialism). Theo nhà nhân học người Mỹ Clifford
Geertz (1926 – 2006), “tin rằng, cùng với Max Weber, con người là loài thú bị mắc
trong các mạng lưới ngữ nghĩa (webs of significance) mà chính họ bện thành, văn
hóa chính là các mạng lưới đó, và phân tích văn hóa, do đó, không phải là thí
nghiệm (experimental: thí nghiệm # empirical: thực nghiệm) nhằm tìm kiếm quy luật
mà là phân tích diễn giải nhằm tìm kiếm ý nghĩa”.
Những nhà nhân học biểu tượng lỗi
lạc như Clifford Geerzt, David Schneider, Victor Turner và Mary Douglas.
[13] Marginalism là lý thuyết
kinh tế cố gắng giải thích
sự khác biệt trong giá trị hàng hóa
và dịch vụ bằng
cách tham chiếu đến hữu dụng thứ cấp, hoặc biên, của chúng.
Lý do vì sao giá kim cương cao hơn so với giá của nước,
ví dụ, là do sự thỏa mãn khi tăng thêm kim cương lớn hơn sự thỏa mãn khi tăng
thêm của nước. Như vậy, trong khi
nước có tổng hữu dụng lớn hơn thì kim cương lại
có hữu dụng biên (marginal utility) lớn hơn. Lý thuyết
này đã được sử dụng để giải thích sự khác biệt về tiền lương giữa các dịch vụ thiết yếu và không thiết yếu, chẳng hạn
như tại sao tiền lương của thợ sửa máy điều hòa lớn
hơn tiền lương của người chăm sóc trẻ.
[14] Có thể
tham khảo thêm về khái niệm “thick description” tại đây http://sotaynghiencuu.blogspot.com/2011/11/thick-description.html