Tuesday, November 15, 2011

Thick Description

Phương pháp miêu tả đậm

Lê Hải*

Mặc dù là thuật ngữ thick description (tạm dịch là miêu/mô tả đậm) thường gắn liền với tên tuổi của nhà nhân học người Mỹ Clifford Geertz, thực ra ông chỉ dùng lại khái niệm đã được triết gia người Anh Gilbert Ryle (1900-1976) đưa ra từ trước, nhưng lại vận dụng thành công để nâng ngành nhân chủng học (ethnology) đã phá sản lên thành nhân học xã hội (social anthropology).

Một ví dụ dễ hiểu được đưa ra là khi nét mặt của một người khác thì sẽ dễ dàng phân biệt được hành động chớp mắt (twitch) của người thứ nhất với động tác nháy mắt (wink) của người thứ hai, trong khi một chiếc máy chụp ảnh thì không có khả năng như vậy. Nháy mắt là một động tác thông tin (communication): cố tình, truyền đến một người nhất định, chuyển tải một thông tin nhất định, theo một qui tắc xã hội nhất định. Nhưng trường hợp động tác nhại lại của người thứ ba, giả như nháy mắt nhưng không phải nháy mắt và cũng chẳng phải chớp mắt thì sao? Ryle giải thích là miêu tả mỏng (thin description) đều giống nhau cho cả ba trường hợp, đều là hai mí mắt chuyển động chập vào nhau, trong khi miêu tả đậm (thick description) thì phải nêu ra toàn bộ mối quan hệ giữa ba người này trong bối cảnh một câu chuyện đang diễn ra tại thời điểm này trong không gian này.

Tiếp tục với ví dụ về câu chuyện một người Do Thái đòi lại bầy cừu bị mất ở xứ Ma-rốc thuộc Pháp mà muốn trình bày ra ở đây sẽ phải kể loại toàn bộ những mối quan hệ rắc rối giữa những nhân vật trong một câu chuyện đơn giản là đi đòi lại bầy cừu bị mất, Clifford Geertz diễn giải rằng nhiều khi một dữ liệu thật đơn giản như lá thư ngắn trong cái chai trôi trên biển dạt vào bờ cũng đủ để nhà nhân học tạo ra một mô tả đậm đến bất ngờ. "Cái mà ta gọi là dữ kiện thực sự chính là cấu trúc tư duy của chúng ta về cấu trúc tư duy của người khác trong khung cảnh của họ và những người cùng nhóm." Để hiểu được nhiều khi chỉ đơn giản là một động tác phải làm trong lễ nghi truyền thống chẳng hạn như đám cưới thì người mô tả phải cung cấp vô số thông tin nền trước khi trực tiếp khảo sát hành động đó. Văn hóa và các mối quan hệ xã hội (chính trị, kinh tế, cộng đồng) càng tích tụ bao nhiêu thì mô tả càng đậm đặc bấy nhiêu. Sự khác biệt về số lượng giữa mô tả mỏng rằng chú rể chỉ tay vào cô dâu trong đám cưới Hồi giáo và mô tả đậm phải chuẩn bị thông tin nền về Hồi giáo, về thủ tục hôn lễ, về quan điểm giới trong xã hội v.v. có thể lên đến vài chục trang giấy. Tương tự vậy với mô tả mỏng và đậm về một chiếc áo Veston mà chú rể mặc trong một đám cưới ở một xã biên giới miệt An Giang, khi được làm đậm thêm bằng lịch sử du nhập văn hóa hay kinh tế toàn cầu, lẫn biểu tượng quyền lực chính trị và vai trò cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng làng xã. "Các dữ kiện nhỏ nói lên vấn đề lớn, nháy mắy là câu chuyện của ý thức (epistemology), cướp bầy cừu là chuyện cách mạng, vì được làm ra như vậy".

Clifford Geertz nhìn văn hóa theo kiểu của Max Weber. Với Weber thì con người là loài thú mắc trong cái lưới của ngữ nghĩa (significance) mà ông đã đặt. Và Clifford coi văn hóa chính là cái lưới đó, mà các phân tích về văn hóa không phải là thí nghiệm như trong ngành khoa học tự nhiên để phát hiện qui luật tự nhiên, mà là một quá trình diễn giải để tìm hiểu ý nghĩa (meaning). Khi đó thì miêu tả sẽ còn đậm thêm, vì ý nghĩa luôn thay đổi theo thời gian và không gian, cũng như bối cảnh xã hội, được người ta thiết lập hay tái lập, mở rộng hay thu hẹp, chưa kể cách nhìn ý nghĩa còn thay đổi nhiều từ sau Husserl và Wittgenstein. Và quan trọng hơn nữa, là người mô tả đứng giữa hai hệ thống văn hóa khác nhau, của nhóm người được mô tả và nhóm người đọc mô tả đó, mà nhiều khi còn thêm hệ thống văn hóa thứ ba, tức là bề dày lịch sử và bản sắc của chính bản thân mình.

"Nói tóm lại - Clifford Geertz giải thích - viết luận văn nhân học bản thân là diễn giải," tức là cũng giống như một bài bình giảng văn học, hay bất kỳ một bài văn mô tả nào thành công [1]là đưa độc giả vào tâm của vấn đề đang được diễn giải (interpretation). Nhân học không chỉ là ở hiện trường ta điền dã, mà còn nằm sẵn hay được thể hiện trên trang sách, trong bài báo, qua giờ giảng, qua trình bày của bảo tàng và nay là cả qua phim ảnh nữa. Trong thời đại mạng toàn cầu thì mô tả còn đậm đặc thêm qua các liên kết hypertext.

[*] Tóm lược từ Clifford Geertz 1973, Thick Description: Toward an Interpretive Theory of Culture, in The Interpretation of Culture, Basic Books, các đoạn đặt trong ngoặc kép là trích dịch từ tác phẩm này. Độc giả quan tâm có thể tìm đọc nguyên văn tiếng Anh chương về khái niệm Thick Description của Clifford Geertz trong quyển sách này ở trang mạng http://hypergeertz.jku.at/GeertzTexts/Thick_Description.htm

[1] như bài tập làm văn của cậu bé trường Am mô tả giá trị đồng tiền gây xôn xao dư luận gần đây, hay những truyện ngắn thường gặp trên Văn Chương Việt, chẳng hạn như câu chuyện (hư cấu?) về một cô gái đi bán trứng của Lưu Thủy Hương http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=17256

Sunday, November 6, 2011

hoi thoai

Hội thoại nhìn từ Tâm lý học xã hội đời thường

Michael Argyle, Lê Hải lược dịch


LND: Sau một thời gian gây ảnh hưởng mạnh trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, ngành tâm lý học xã hội bắt đầu bị chỉ trích vì chỉ chăm lo đến các mô hình, khái niệm tổng quát và xa rời các vấn đề trong cuộc sống xã hội đời thường mà mỗi cá nhân vẫn gặp mỗi ngày. Đó là xuất phát điểm cho các tác giả như Michael Argyle soạn giáo trình Tâm lý học xã hội đời thường (The Social Psychology of Everyday Life), Routledge xuất bản năm 1992. Phương pháp thường gặp trong nghiên cứu tâm lý học xã hội là tập trung một nhóm nhỏ 2-4 sinh viên, rồi yêu cầu giải quyết một vấn đề, để sau đó phát hiện các mối quan hệ và qui luật đã được kiểm chứng rất nhiều lần và đưa vào sách giáo khoa, nhưng thực sự ra lối "nghiên cứu" đó không sát với thực tế đời thường, và cũng không đề cập gì đến những bối cảnh xã hộ như trong gia đình, xóm đạo, hiệp hội hay nhóm bạn bè. Một trong số những lĩnh vực thuộc loại quan trọng nhất trong mối quan tâm của ngành tâm lý xã hội nhưng lại ít được chú ý là đối thoại, được Michael Argyle dành riêng một chương trong sách.


Đa số các sách giáo khoa ngàh tâm lý xã hội hiện nay không có chương riêng về hành động trao đổi trò chuyện, nhưng đây mới là trung tâm của hầu hết tất cả mọi hành vi xã hội. Và cũng không hay nếu để cho các nhà ngôn ngữ toàn quyền xử lý, bởi vì mối quan tâm của họ có khác - chủ yếu là đi tìm các qui luật chi phối việc sắp đặt câu. Lời nói thì lại tạo khả năng cho công việc và giả trí, thiết lập quan hệ; công việc, giải trí và quan hệ bao gồm nhiều hay ít câu chuyện trao đổi. Hội thoại là môi trường của các tư tưởng và từ vựng chung, cũng như các qui tắc và thông hiểu chung.


Thường nhà ngôn ngữ học diễn tả ngôn ngữ bằng các chữ in trên giấy. Đây là sai lầm, vì đơn vị thực sự là lời trình bày của một cá nhân tới một cá nhân hay nhiều người khác, trong một hoàn cảnh, trong một mạch câu chuyện, nơi anh hay chị ta tìm cách ảnh hưởng lên người khác. Lời trình bày là đơn vị của một hành vi xã hội, nhưng là đơn vị rất đặc biệt, vì dùng từ và ngữ pháp, và truyền đạt ý nghĩa. Các cuộc hội thoại tương tự nhau cùng là các chuỗi hành vi đặc biệt với cấu trúc phức tạo, và đòi hỏi phải sở hữu những kỹ năng đặc biệt để thực hiện đúng cách.


Nhà tâm lý học xã hội nghiên cứu hội thoại qua thí nghiệm và các phương pháp giúp định lượng. Kết quả sẽ được đăng tải trong các tạp chí tâm lý như là Journal of Language and Social Psychology. Trong khi đó nhà ngôn ngữ học lại nghiên cứu hội thoạ, ví dụ như là phương pháp "phân tích hội thoại", qua một vài ví dụ và suy diễn ra sự tồn tại của các qui luật như là luật ngữ pháp.


[... Như vậy,] đơn vị cơ bản của ngôn ngữ hiện được người ta tin không phải là chữ in mà là những truyền đạt bằng lời nói (utterance). Một lời truyền đoạt là một thành phần của hành vi.


[...] Truyền đạt không lời (non-verbal communication) giữ một số vai trò quan trọng trong hội thoại: thêm vào và làm đầy đủ ý nghĩa của lời truyền đạt, đưa tín hiệu phản hồi từ người nghe, đồi thời giúp phối hợp và bảo đảm đồng bộ.


[...] Một chuỗi hội thoại có thể có dạng phổ biến nhất là hỏi-trả lời, hay yêu cầu-thực hiện (hay từ chối), triệu tập-đáp lễ, đề nghị-chấp thuận (hay từ chối), cám ơn-ghi nhận, chúc mừng, hội hè.


[...] Hai người đang đối thoại cũng "đối đãi" lẫn nhau, ví dụ như họ thay đổi kiểu nói chuyện để giống nhau hơn. Có thể thấy qua việc sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, hay độ to nhỏ và dài ngắn của lời truyền đạt. Họ làm như vậy một phần để người kia tiếp nhận, hay hòa nhập, và một phần là để hiểu nhau hơn. [...]


Hội thoại là kỹ năng phối hợp khó khăn giữ hai hay nhiều người, và cần thiết cho tất cả mọi hành vi xã hội. Người ta đã phát hiện nhiều hiện tượng đặc trưng cho hành vi này, ví dụ như liên chủ quan, đối đãi và lễ giáo. Chuỗi hội thoại phức tạp, chỉ có thể hiểu một phần. Các tín hiệu không lời giữ vai trò mật thiết để phối hợp đồng bộ và tạo kênh phản hồi. Các kỹ năng nói chuyện đặc biệt được cần đến khi kết bạn, trao đổi qua điện thoại và trong các tình huống khác, và có khác biệt lớn trong kiểu nói chuyện giữa các giới tính và tầng lớp xã hội khác nhau. Nếu không nắm được các kỹ năng hội thoại tổng quát hay trong trường hợp đặc biệt thì sẽ tạo ra khó khăn, nhưng người ta có thể được huấn luyện để sử dụng các kiến thức hiện có.

Saturday, November 5, 2011

ky nang doc

Kỹ năng đọc cho sinh viên

Lê Hải lược dịch [*]


Bên cạnh kỹ năng viết và lập luận, kỹ năng đọc là một trong số những hoạt động quan trọng nhất mà sinh viên cần làm quen. Đó là thực tế, và thực tế thật đáng tiếc là đa số sinh viên [1] đều gặp vấn đề trong việc đọc. Có vẻ như sinh viên phải đọc quá nhiều và không bao giờ đủ thời gian để đọc. Danh sách những gì cần đọc thường rất dài, và giảng viên đưa ra nhiều hướng dẫn khác và ngay cả khi bạn chỉ đơn giản là tìm đọc những gì mình quan tâm thì sẽ sớm nhận thấy (nếu vẫn chưa làm như vậy) rằng có quá nhiều thông tin cần tiếp nhận và có quá ít thời gian để tiếp nhận chúng. [...]


Chúng tôi không nghĩ rằng người đọc giỏi đơn giản chỉ là vấn đề phát triển kỹ năng và phương pháp đọc sách. Sinh viên muốn trở thành người đọc giỏi cần học cách chắt lọc thông tin hiệu quả từ những gì đã đọc, đồng thời học cách giao tiếp một cách sáng tạo và phê bình với quyển sách. Họ cũng sẽ thành người đọc có kỷ luật, hình thành và duy trì thói quen tốt, và sử dụng tốt thời gian nhờ vận dụng các kỹ năng và phương pháp đã tiếp thu. [...]


Cùng với lắng nghe và quan sát, đọc sách là phương tiện quan trọng để chúng ta tiếp nhận thông tin về thế giới. Đọc sách củng cố hầu hết công việc đại học của sinh viên, cũng như đang là nền móng của cuộc sống đại học của giảng viên của bạn. Người làm công tác khoa học phải đọc, để mà đạt được và duy trì sự hiểu biết chuyên ngành, liên tục cập nhật, và đối chiếu công việc của mình với các đồng nghiệp khác. Bạn phải đọc để biết về chuyên ngành mình đang học và giúp mình tiếp nhận phong cách khoa học vào bài viết. "Phong cách khoa học" ở đây là cách bạn liên kết những gì mình viết với những gì người khác đã viết về cùng một đề tài hay các đề tài có liên quan. [...]


Bạn có thể thấy ích lợi từ việc lưu lại các bài viết khoa học mẫu mực mà bạn từng đọc qua. Bạn có khả năng phát hiện một bài viết tốt, vì bài đó sẽ truyền đạt ý tưởng và lập luận dù rất phức tạp nhưng dễ hiểu. Bạn có thể làm một cặp hồ sơ lưu các bản sao những đoạn văn đó, vài trang hay cả chương hoặc bài viết trên tạp chí. Cùng đó là một vài ghi chú riêng giải thích tại sao bạn lại nghĩ đó là bài viết thành công, ví dụ như là do dùng câu ngắn, từ ngữ đơn giản, hay dùng ngôi thứ nhất để truyền đạt, hay đơn giản là tránh dùng từ chuyên môn? Và cũng ích lợi nếu sưu tập các bài viết kém, đặc biệt là các bài viết không thể đọc nổi và chẳng truyền đạt được gì, ngoài cảm giác là tác giả có lẽ vô cùng thông thái nếu biết rõ mình đang viết gì. Bạn cũng có thể lưu trữ những bài viết thất bại mình từng gặp thành cặp hồ sơ, với ghi chú bên cạnh giải thích lý do làm bài viết kém. [...]


Chưa bao giờ xu hướng các trường đại học và cao đẳng muốn sinh viên không chỉ tiếp thu kỹ năng đọc mà còn cả phương pháp đọc chuyên môn lại mạnh như hiện nay, gọi là học từ nguồn sách: resource-based learning. Trong một quyển sách trước, chúng tôi từng nhắc đến khái niệm FOFO (First Organise and Find Out) do một trường đại học đặt ra nhằm muốn sinh viên trở thành những người có khả năng tự học bằng cách trao cho họ trách nhiệm về việc học của mình. [...]


Bất kể bạn đã đọc gì, và tiếp xúc với loại sách khoa học nào, những gì bạn sẽ đọc ở trường đại học khác với những gì trước đây, đặc biệt là khác với sách giáo khoa thời trung học. Trong vai trò sinh viên bạn sẽ được giảng viên hướng dẫn đọc một số sách, qua danh sách bắt buộc cho toàn môn, và các đề mục được giới thiệu thêm. Tuy nhiên, thường thì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm tìm kiếm và quyết định sẽ đọc gì, hơn là thụ động như ở cấp phổ thông. [...]


Bạn cũng cần phải tìm xem mình là người đọc thuộc loại nào. Người khéo léo có thể cùng lúc nắm giữ và luân chuyển nhiều ý tưởng khác nhau. Người nấu bếp từ từ lên men tư tưởng riêng với một ít từ chỗ này, một phần từ chỗ kia từ những gì đã đọc. Người thám hiểm đi vào nơi chưa biết và có lúc vào khu vực tri thức nguy hiểm. Người làm vườn, cẩn thận lên kế hoạch, chuẩn bị nền rất kỹ bằng cách đặt trước câu hỏi muốn tìm gì trong lúc đọc, nuôi dưỡng cẩn thận ý tưởng của mình khi gặp môi trường và loại bỏ các nhánh yếu. Thám tử theo dấu các lập luận và dòng suy nghĩ, cả trong và giữa các văn bản. Người đọc tình cảm sẽ đem những thông điệp đáng yêu đã gặp vào bài khóa luận. Người làm bản đồ sẽ phác thảo sơ đồ của quyển sách, xác định cao điểm và thung lũng, các đặc tính địa hình để anh ta dễ dàng tìm đường đi khi quay lại sau này. [...]


Trong vai trò sinh viên, nhiệm vụ của bạn là phải nhớ, sắp xếp và vận dụng một khối lượng lớn thông tin đa phần là đến từ quá trình đọc của bạn. Một số thông tin sẽ là dạng mà chúng ta thường gọi là "kiến thức", ý nói có một mức độ định nghĩa trong đó, hoặc quá ý nghĩa mà người ta coi là sự thật. Các thông tin khác cũng cần phải tiếp thu và sử dụng nhưng không phải là kiến thức, mà là quan điểm hay ý kiến. Khi ghi chú bạn sẽ phải tự tìm ra cách đê phân loại các thông tin khác nhau đó. [...]


Phương pháp ghi chú tùy thuộc vào cách học của bạn và con đường tư duy riêng của bạn. Có người luôn giữ một cách ghi chép nhất quán trong lúc đọc sách, có người lại thích phối hợp các kiểu tiện lợi, như là dùng sơ đồ nếu ý tưởng cần trình bày theo kiểu như vậy, hoặc liệt kê theo danh sách chẳng hạn như là các từ khóa, các cụm từ hay câu ngắn, và cũng có người ghi chép rất nhiều. Quan trọng là bạn chọn phương pháp ghi chú phù hợp với tài liệu đang đọc và mục tiêu trong việc đọc và viêt ghi chú. Ví dụ khi gặp các lập luận phức tạp thì ghi thành từng hàng sẽ thuận lợi hơn, mỗi lập luận mới sẽ là một hàng mới trong sổ ghi chép. Hay là khi ghi chép về một quá trình khoa học, hay quan hệ giữa các cá nhân trong một tổ chức, hay nguyên nhân tạo ra một sự kiện lịch sử, thì có thể đánh điểm hoặc vẽ sơ đồ. [...]


Thay vì viết ghi chú vào tờ giấy khác, một số người chọn sử dụng luôn tài liệu mà họ đang đọc - tô màu các chữ và viết bình luận vào bên cạnh. Một số giảng viên đại học không chấp nhận hành vi này, nhưng chúng tôi hoàn toàn ủng hộ việc viết vào sách và tài liệu, vì làm như vậy giúp bạn sử dụng chúng hiệu quả hơn, với điều kiện là bạn chỉ viết vào sách và tài liệu của mình, không bao giờ viết vào sách hay tài liệu của người khác. [...]


Học cách đọc bài viết của chính mình có lẽ là điều quan trọng nhất bạn có thể làm nếu muốn viết tốt hơn, vì bài khóa luận mà bạn sẽ phải viết nháp và sửa chửa lại cùng luận văn sẽ là công việc viết quan trọng nhất. Ai cũng có thể viết một chuỗi các từ và may mắn thì họ sẽ nối lại thành câu và khổ tạo ra một nội dung nào đó. Tuy nhiên, kỹ năng thực sự nằm ở chỗ làm các dòng chữ đó chuyển tải được thông điệp một cách đơn giản, rõ ràng và lịch thiệp nhất. [...]


[*] Từ giáo trình của Gavin J. Fairbairn & Susan A. Fairbairn 2001, Reading at University - A guide for Students, Open University Press, chú thích của người dịch.

[1] Tác giả là giảng viên tại đại học Mở, trường có nhiều sinh viên (đào tạo từ xa) nhất nước Anh, đồng thời cũng nghiên cứu về vấn đề đọc sách của sinh viên ở Mỹ.

Saturday, October 29, 2011

phim

Làm phim nghiên cứu và Nghiên cứu làm phim


Social Psychology

Tâm lý học xã hội

Lê Hải, theo giáo trình của Smith&Mackie

Social psychology là ngành học chính thức được xuất hiện vào năm 1908 với hai quyển sách giáo khoa cùng tên. Một quyển là của nhà tâm lý học William McDougall, cho rằng mọi hành vi xã hội là vốn có hoặc bản năng, là tư duy phổ biến trong ngành tâm lý học thời bấy giờ. Quyển kia là của nhà xã hội học E.A. Ross, lập luận rằng con người chịu ảnh hưởng nhiều của người khác, bất kể là người kia có hiện diện ngay bên cạnh hay không. Tư tưởng này sau trở thành chủ đạo trong ngành tâm lý học xã hội. Các thay đổi của con người trong môi trường xã hội được quan tâm đặc biệt sau hai thí nghiệm nổi tiếng. Trước hết là nhà nghiên cứu người Mỹ Norman Triplett vào năm 1898 nhận thấy người bơi thi có thành tích cao hơn tự bơi một mình, tức là sự có mặt của những người khác ảnh hưởng tích cực đến hành động của người đó. Thế nhưng một ghi nhận khác trong thập niên 1880s của kỹ sư nông học người Pháp Max Ringelmann thì lại thấy ảnh hưởng tiêu cực, người ta ít bỏ sức hơn khi cùng kéo dây hay đẩy xe. Trước đó nữa, vào thời văn minh Hi Lạp, các triết gia cũng đã quan tâm đến đìều kiện sống của con người, như Plato với khái niệm não trạng của đám đông, rằng ngay cả người thông thái nhất khi lạc vào đám đông cũng có thể bị biến thành một người hành động mù quáng vô suy nghĩ.

Hiện tại, tâm lý học xã hội (social psychology) được định nghĩa là một môn khoa học nghiên cứu các ảnh hưởng của các quá trình xã hội và nhận thức lên cách mà các cá nhân nhận biết, ảnh hưởng, và quan hệ với những người khác. Theo đó, mối quan tâm hàng đầu của ngành là làm thế nào người ta hiểu và giao tiếp với những người khác, và nhà tâm lý học xã hội đặc biệt quan tâm đến các quá trình nhận thức và xã hội nằm bên dưới các hành vi mở của con người. Kurt Lewin cho rằng mọi hành động của mỗi cá nhân phụ thuộc vào một khái niệm mà ông đặt ra hồi năm 1936 gọi là "không gian sống" của người đó, tức là bản đồ chủ quan về các mục tiêu của người này trong môi trường xã hội.

Sau khi tách khỏi ngành tâm lý học, chủ yếu là từ cách nhìn hành vi cá nhân qua ảnh hưởng xã hội, bộ môn tâm lý học xã hội ở Bắc Mỹ bất ngờ nhận được nhiều chuyên gia từ châu Âu chạy sang trốn chế độ Đức quốc xã trong thập niên 1930s và 1940s. Cùng lúc hai nhánh nghiên cứu cơ bản và ứng dụng được phát triển trong hai thập niên tiếp theo là 1950s và 1960s, rồi cùng kết hợp lại. Nói chung toàn ngành dựa trên 8 nguyên tắc chính, chia thành 3 nhóm. Đầu tiên là hai trục cơ bản của ngành, cho rằng người ta tự kiến tạo nên thực tại của mình, và các ảnh hưởng xã hội là lan truyền. Tiếp theo là nhóm 3 động cơ mà con người đi theo là luôn tìm cách hiểu và kiểm soát môi trường xung quanh, luôn tìm kiếm sự kết nối với những người khác, và coi trọng bản thân và những gì của mình. Cuối cùng là nhóm 3 nguyên tắc trong quá trình là coi các quan điểm đã hình thành thường thay đổi chậm, coi khả năng dễ truy cập thông tin sẽ ảnh hưởng mạnh nhất tới quyết định của con người, và có thể ảnh hưởng trên bề mặt lẫn chiều sâu.

Các nguyên tắc và phương pháp khoa học chính là điểm phân biệt giữa ngành tâm lý học xã hội và các nhận định đời thường về tâm lý xã hội mà người ta hay đọc thấy trên báo, hay ý kiến của đa số. Không ít nghiên cứu đưa ra những kết luận trái ngược với những điều người ta hằng tưởng, ví dụ như là không phải cứ trúng số là hạnh phúc hơn, hay thực sự ra người mắc bệnh hiểm nghèo thường lạc quan và có nghị lực hơn với cuộc sống. Nhà tâm lý học xã hội cũng giống người thường là đều chịu ảnh hưởng của môi trường xã hội khi nhận định và đánh giá vấn đề, nhưng khác là ý thức được về các ảnh hưởng đó. Do vậy, các giáo trình cho ngành học này thường bắt đầu bằng việc khám phá chính bản thân mình, qua con đường mà các triết gia ngày xưa gọi là kiến thức, tức là hiểu biết một cách khoa học về bản thân: self-knowledge. Theo đó, hiểu biết về bản thân gồm hai thành phần, trước hết là khái niệm về bản thân: self-concept và sau là cảm giác về mình: self-esteem. Người ta nhận biết được về bản thân thường là qua so sánh mình với những người xung quanh trong quá trình tương tác, thông qua các hành vi (behavior) của mình. Các đánh giá đó cũng bao gồm việc phân loại nhóm và thái độ đối với từng nhóm một, hình thành nên hình ảnh chủ quan về nhóm xã hội đó (stereotype), thường tạo thành qua quá trình dạy dỗ ở gia đình và giáo dục ngoài xã hội. Còn cảm giác self-esteem sẽ chi phối việc xác định bản sắc nhóm, tình cảm gắn bó của cá nhân với nhóm đó. Tổng hợp lại hiểu biết về bản thân sẽ chi phối quá trình nhận biết chung quanh, chấp nhận các ảnh hưởng từ môi trường, đặt ra thái độ riêng với hoàn cảnh và tạo ra hành vi phù hợp.

Khi nắm bắt được các qui luật chi phối bản thân người ta có thể vận dụng để chi phối hành động của người khác thông qua nhóm, ví dụ như sự kiện làm chấn động chính trường nước Pháp vào tháng Tám năm 1990. Đảng xã hội tổ chức hội nghị thường niên và sử dụng một số sinh viên cùng diễn viên thất nghiệp đến tạo không khí ủng hộ nhiệt tình, có tác động lây lan sang các đại biểu bình thường. Những người hát rong hay bartender biết là nếu bỏ sẵn tiền tạo cảm giác những người khác đã cho tiền thì sẽ khiến người đi đường dễ cho tiền và cho nhiều hơn. Và như vậy, ngành tâm lý học xã hội có thể đi thêm một bước, tìm hiểu các định chuẩn (norm) được hình thành trong xã hội và tác động của nó đối với hành vi của các thành viên, từ người nhiệt thành tuân thủ cho đến người phá vỡ qui luật. Người ta cũng có thể nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa và tình dục vào việc lựa chọn kết bạn, hay tình yêu, hôn nhân. Thậm chí bộ môn này cũng nghiên cứu giải thích tình trạng bạo lực và xung đột giữa các nhóm, cũng như tìm giải pháp để giải quyết.

Nếu bạn cảm thấy hứng thú với phương pháp vừa kể để tìm hiểu bản thân và thế giới xung quanh, thì hãy bắt đầu quan tâm đến ngành tâm lý học xã hội, và đọc một vài trang sách giáo khoa chuyên ngành, như quyển sách vừa được dùng làm tài liệu tham khảo cho bài viết này, giáo trình của Eliot R. Smith & Diane M. Mackie 2000, Social Psychology, Psychology Press xuất bản.

Rousseau

Rousseau và viên đá đầu tiên cho con đường nhân văn

Lê Hải

Dù sinh ra từ trước đó 250 năm, triết gia người Pháp gốc Geneva Jean Jacques Rousseau (1712-1778) vẫn được nhà nhân học hàng đầu thế giới Claude Lévi-Strauss xưng tụng là "cha đẻ của các ngành khoa học nhân văn" [1]. "Rousseau không chỉ là người quan sát thâm nhập cuộc sống làng quê, độc giả miệt mài của các quyển sách du ký, người nghiên cứu giàu kinh nghiệm về phong tục và tín ngưỡng mà có thể không sợ sai khi nhận xét rằng từ khi chưa có ngành dân tộc học (ethnology), tức là 100 năm trước khi ngành này ra đời, thì ông đã mường tượng, đã đặt mục tiêu và đã mở những bước đi đầu tiên, đã đặt chỗ đứng cho ngành giữa khoa học tự nhiên và nhân văn, và thậm chí cả những cơ sở thực hành nữa. [...] Rousseau không chỉ giới hạn ở chỗ dự đoán, mà ông đã mở ra ngành nghiên cứu dân tộc," [2] tức là một nhánh hình thành nên ngành nhân học (anthropology) sau này.

Thời của Rousseau các triết gia ngồi một chỗ, không đi đến các vùng đất mới rồi quay về như các tác giả của những quyển du ký, và các lý thuyết gọi là tìm hiểu con người thực ra chỉ là nghiên cứu những người xung quanh mà thôi. Nhà nghiên cứu dân tộc học hay nhân học văn hóa chính là triết gia đi lữ hành, và tìm hiểu nhân loại qua những người khác mình. Đó chính là điều mà 200 năm sau Claude Lévi-Strauss làm với Nhiệt đới buồn hay trước đó một ít là Bronisław Malinowski với Argonauts miền Tây Thái bình dương. Tư tưởng của Rousseau nay trở thành nhân sinh quan khoa học cho ngành nhân học, mà mấu chốt là dù nghiên cứu những nhóm người xa xôi nhất, nhưng đồng thời lại chính là nghiên cứu bản thân mình, xác định bản sắc của người khác nhưng cũng chính là xác định bản sắc của chính mình. Nhưng cũng cần chú ý là các tác giả thế hệ đầu của ngành nhân học không hề chịu ảnh hưởng ít nhất là trực tiếp của Rousseau.

Nay thì các nhà nhân học không chỉ làm triết gia trên đường đi mà thậm chí còn bỏ trốn. Họ trốn chạy khỏi xã hội văn minh, đô thị hóa, công nghiệp hóa và những nền văn hóa do các xã hội đó sản sinh ra như tiêu chuẩn hóa, đồng nhất hóa và hư hỏng, tức là xã hội đại chúng và văn hóa đại chúng. Nhưng thực ra thì cũng như Rousseau đã nói [3], không thể xác định đâu là văn hóa ban đầu, và con người không thể nào sống bên ngoài môi trường xã hội, còn văn hóa thì liên tục qua lại giữa cái sơ khai và cái hiện đại, cũng như xã hội nằm giữa những thể chế sơ khai như gia đình hay cộng đồng và những hệ thống hiện đại như chính quyền và nhà nước.

[1] Như tựa đề của bài giảng được Claude Lévi-Strausse đọc tại Geneva trong ngày kỷ niệm 250 ngày sinh Rousseau, sau đó in lại trong tập sách nhiều tác giả xuất bản cùng năm 1962, và in lại trong nhiều giáo trình nhân học như quyển Anthropologie structurale deux của ông xuất bản năm 1973, giáo trình nhân học văn hóa của Đại học tổng hợp Warszawa do Andrzej Mencwel chủ biên, xuất bản năm 2001. Bài viết này lấy lại ý của hai tác phẩm vừa kể. Theo phân tích của sử gia xã hội học người Ba Lan Jerzy Szacki thì Rousseau cũng cùng với Montesquieu có ảnh hưởng mạnh lên Durkheim.

[2] Tác phẩm Bàn về nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa người với người (Discours sur l'origine et les fondements de l'inégalité parmi les hommes) được coi là tuyên ngôn hay sách giáo khoa đầu tiên cho ngành này.

[3] Độc giả quan tâm hơn về tư duy triết học của Rousseau có thể tìm đọc bài viết của Bùi Văn Nam Sơn trên SGTT ở địa chỉ http://sgtt.vn/Khoa-giao/154448/Khai-minh-ve-khai-minh.html, hay các bài hệ thống hóa triết học của Nguyễn Ứớc trên Văn Chương Việt như tại địa chỉ http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=9573

Vico

Giambattista Vico và điểm khởi đầu cho lịch sử văn hóa

Lê Hải

Tác phẩm [Khoa học mới] La scienza nuova của giáo sư người Ý Giambattista Vico (1668-1744) không chỉ là điểm sáng quan trọng trong hệ thống triết học Khai sáng của Pháp mà còn được coi là viên gạch đầu tiên cho các ngành nghiên cứu văn hóa, như nhân học văn hóa (cultural anthropology) và nhất là lịch sử văn hóa (history of culture). Cách đặt vấn đề về văn hóa của ông cũng gần giống với cách dịch khái niệm này sang tiếng Hán và vào tiếng Việt: avant la letter.

Khác với các triết gia thời bấy giờ, cổ xúy lý tính (rationalism) trong tư duy, Vico luôn thiên về tôn giáo, tìm đến cảm nhận và linh tính. Trong lúc người ta phân định thế giới con người qua những mô hình hình học thì ông cho rằng những gì chi phối các qui luật xã hội thực tế hơn những điểm, đường thẳng, hay mặt phẳng và hình thể, tức là những khái niệm trừu tượng trong hình học. Bằng cách đó chúng ta mới tiếp xúc được với thế giới thực tại mà con người đang tham gia. Giữa lúc toán học và các ngành tự nhiên đang phát triển và ảnh hưởng rộng rãi, Vico lại muốn đặt hiểu biết của con người lên cao hơn, đòi hỏi con người phải có hiểu biết riêng, chứ không đơn giản là kiến thức về cơ chế hoạt động của thế giới bên ngoài. Khi đó con người được coi là đã làm công việc mà trước đây chỉ có Chúa mới có khả năng, và còn hơn vậy. Chúa chỉ biết những gì đã tạo ra là tự nhiên, còn thế giới của các dân tộc là do con người tạo ra, cho nên nằm trong khả năng hiểu biết của con người.

Vì lẽ đó tác giả của công trình tư tưởng La scienza nuova không quan tâm đến mối quan hệ nhân quả giữa con người với tự nhiên, mà là những gì khiến con người khác biệt với tự nhiên. Khi đó có thể thấy chính việc con người tham gia vào quá trình lịch sử đã tạo ra cơ hội đặc biệt về nhận biết, nhờ là một nhân tố sáng tạo. Kiến thức lịch sử ở đây chính là kiến thức về con người, chính mình đã sáng tạo và đồng thời nhận biết sự sáng tạo đó. Theo Vico, con người là một thực tại xã hội, và quan trọng hơn, là một thực tại lịch sử. Khi đó khái niệm con người không thể tách rời khỏi quá trình phát triển tự nhiên, cùng lúc về vật chất, đạo đức, tri thức, lòng tin, lẫn xã hội, chính trị và nghệ thuật. Bản chất con người chỉ có thể hiểu được trong mối quan hệ đã được phân loại với những người ở thế giới bên ngoài và những người khác. Và quan trọng nhất, là con người khác biệt hẳn với những qui luật tự nhiên vì chịu ảnh hưởng từ việc tham gia trong nhóm xã hội. Cảm giác lệ thuộc vào nhóm cũng cần thiết và mang tính quyết định trong cuộc sống con người cũng giống như là nhu cầu ăn, ở hay sáng tạo, như là cảm giác thèm muốn và ngượng ngùng, hay tìm kiếm quyền lực và sự thật, và tất cả những cảm giác đã tạo ra con người như là con người đó.

Bởi vì là những nhóm khác nhau, cho nên mỗi dân tộc có một đặc điểm riêng và đi theo con đường riêng, với nhịp độ không đều nhau và những con đường không tương tự như nhau. Và đó là cách nhìn lịch sử theo con đường mà Giambattista Vico đã mở ra: lịch sử của văn hóa nhân loại.

Sunday, October 16, 2011

von Herder

von Herder và văn hóa dân tộc

Lê Hải (X.2011)

Dù là người ảnh hưởng mạnh đến tư duy của Johann Wolfgang von Goethe và nhiều triết gia không chỉ của nước Đức [1], cuộc đời và sự nghiệp của Johann Gottfried von Herder (1744-1803) hầu như không được biết đến ở Việt Nam [2]. Không chỉ là người đặt nền móng cho tư tưởng coi lịch sử nhân loại là lịch sử (văn hóa) của các dân tộc [3], Herder còn là người khởi xướng chủ thuyết xây dựng dân tộc từ ngôn ngữ [4] và văn hóa chung [5], được Wilhelm von Humboldt ủng hộ nhiệt thành, và đặc biệt là qua các di sản dân tộc, tạo nguồn cảm hứng cho anh em (Jacob và Wilhelm) nhà Grimm đi sưu tầm truyện cổ tích Đức. Được hoàng thân xứ Bavaria phong tước vào cuối đời (thêm chữ von vào trước họ), Herder cũng là người đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hai ngành ngôn ngữ học (Linguistics) và nhân học (Anthropology) như của Franz Boas ở Mỹ và Bronislaw Malinowski ở Anh.

Do tầm ảnh hưởng rộng và sâu của tư tưởng Herder lên các ngành xã hội và nhân văn phương Tây, rất nhiều quan điểm của ông đã được nhắc lại một cách gián tiếp trong tư duy văn hóa và lịch sử tại Việt Nam [6]. Nhiều người Việt ở nước ngoài kêu gọi gìn giữ bản sắc dân tộc Việt thông qua tiếng Việt, hay các tác phẩm tiếng Việt như truyện Kiều [7], phần nào có thể coi là biểu hiện trên bề mặt của những gì mà Herder đã tư duy trên 200 năm trước, coi ngôn ngữ là thành phần cơ bản của bản sắc dân tộc. Các bài viết gốc của Herder thường được đánh giá là trình bày dễ hiểu hơn so với các triết gia cùng thời, đưa ra nhiều ví dụ và tránh sử dụng quá nhiều từ chuyên môn. Một phần cách viết đó xuất phát từ quan điểm của ông cho rằng ngôn ngữ không chỉ là sản phẩm riêng của ngữ pháp, mà mỗi dân tộc nói theo cách mà dân tộc đó suy nghĩ, và suy nghĩ theo cách mà dân tộc đó nói. Cần chú ý rằng nếu so với Pháp và Anh thời bấy giờ, thì nước Đức mới chỉ bắt đầu hình thành và chưa có thể chế chính trị hay cơ sở thống nhất từ trước, ngay cả vị vua Frederick đệ nhị đại đế cũng quen nói chuyện và tư duy bằng tiếng Pháp hơn là giao tiếp bằng tiếng Đức. Trong bối cảnh như vậy thì dễ hiểu tại sao khái niệm dân tộc (Volk) mà Herder đưa ra ít nhấn mạnh đến định nghĩa về cộng đồng người sống trên cùng lãnh thổ và chịu chung luật pháp, hơn là chú trọng vào các mối liên kết qua những cộng đồng chính trị sơ khai trong lịch sử và cái gọi là văn hóa - thể hiện trước hết là qua ngôn ngữ. Vì Herder coi tập thể quan trọng nhất trong xã hội loài người là dân tộc, cho nên ông thường được coi là nhà tư tưởng dân tộc đầu tiên trên thế giới.

Cũng giống như các triết gia Khai sáng cùng thời, Herder chịu ảnh hưởng mạnh từ Newton, người đem qui luật tự nhiên vào triết học. Tuy nhiên, ông lại không nhìn thế giới qua mô hình cơ khí mà thiên về lối diễn giải hữu cơ (organicism), tức là không giống một cỗ máy đang vận hành mà giống một cơ thể (sinh vật) đang không ngừng tăng trưởng. Theo đó xã hội là môi trường tự nhiên của mỗi cá nhân, mà khi sinh ra thì đã hiển nhiên ngụp lặn giữa các quần thể gia đình, bộ lạc hay là dân tộc. Như vậy xã hội được tạo thành từ các cá nhân nhưng không thể giản lược xuống thành mức cá nhân, và cá nhân cũng không thể bị coi chỉ là một thành phần của xã hội vì có giá trị tự lập (autonomy) không thể thay thế. Nói một cách khác, cá nhân (độc lập suy nghĩ, hoạt động và liên kết xã hội) và cá thể (micro - thành phần tạo nên xã hội - macro) là hai khái niệm khác nhau trong hệ tư tưởng của Herder. Với lối tư duy này thì chính quyền hay thể chế có thể xuất hiện, biến mất hay thay đổi, nhưng điều chính yếu cho một dân tộc là tâm thức cộng đồng truyền thống cũng tồn tại bền vững như là lực tự nhiên. Giống như tư duy của Montesquieu, đây là nền móng sơ khai cho hệ thống khái niệm quốc gia dân tộc (nation-state) phát triển sau đó 100 năm. Herder cho rằng quốc gia tự nhiên nhất là quốc gia đại diện cho một dân tộc hay chỉ có một dân tộc tính (character). Tư duy sử học của ông được các thế hệ học trò sau này như Schlegels, Schleiermacher, Hegel, Nietzsche, và Dilthey tiếp nối và phát triển.

[1] Có thể đọc thêm về di sản triết học của Herder trên từ điển mạng của Đại học Stanford (tiếng Anh) ở địa chỉ http://plato.stanford.edu/entries/herder/

[2] Tìm trên Google có khá nhiều bài viết nhắc đến chuyện Goethe kết bạn với Herder và nhờ ảnh hưởng triết học mà vượt qua tầm mức của bản thân lúc bấy giờ chỉ là một nhà thơ bình thường.

[3] Có thể tham khảo thêm bài điểm qua các góc nhìn lịch sử khác nhau được Nguyễn Ngọc Thơ dịch và trình bày trên trang nhà của khoa Văn hóa học, ĐH KHXH&NV tp.HCM http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=405&Itemid=66

[4] Độc giả quan tâm tìm hiểu thêm lý thuyết của Herder về ngôn ngữ có thể đọc bài giới thiệu của Đặng Phùng Quân ở địa chỉ http://www.gio-o.com/DangPhungQuanLyVan1.htm

[5] Có thể so sánh cách nhìn dân tộc bằng ngôn ngữ và văn hóa chung của Herder với các góc nhìn khác trong cùng giai đoạn như qua bài phân tích của Nguyên Thi http://nguoidan.com/nd155/chuthu.htm

[6] Ví dụ như vấn đề bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của Unesco, qua bài viết của GS Roger Janelly, Thu Hường dịch http://www.vicas.org.vn/Home/index.php/next-step/buy-jsn-dome-pro/vn-ang-tho-lun/316-cac-thach-thc-ly-thuyt-i-vi-cong-tac-bo-tn-di-sn-vn-hoa-phi-vt-th.html, nhập môn lý thuyết văn hóa của Trần Ngọc Khánh http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=2073&Itemid=62, văn hóa dân gian http://viettems.com/files/Tu%20dien%20nhan%20hoc/F/folklore-van%20hoa%20dan%20gian.pdf, hoặc triết lý giáo dục của Humboldt qua giới thiệu của Bùi Văn Nam Sơn http://www.sgtt.com.vn/Khoa-giao/143800/%E2%80%9CDao-sac-moi-cat-duoc-moi-thu%E2%80%9D.html

[7] Ví dụ như ghi nhận của ĐBQH Dương Trung Quốc trong chuyến đi sang Cộng hòa Séc http://blog.yume.vn/xem-blog/tieng-viet-con-thi-cong-dong-nguoi-viet-con.lvcgroup.35AD2DEC.html, hay câu chuyện của một trường tiếng Việt ở Hoa Kỳ http://www1.vietinfo.eu/viet-nam-que-huong/tieng-viet-con-nguoi-viet-con.html

Voltaire

Voltaire và tư duy lý tính

Lê Hải (X.2011)


Chịu đặc ân của hoàng đế Phổ Frederick đệ nhị đại đế nhưng không ngần ngại chỉ trích người tài trợ, bị nước Pháp đày ải nhưng vẫn hết tâm sức làm rạng danh triết học Khai sáng Pháp, viết văn nhưng rất ham mê thí nghiệm vật lý giúp quảng bá Newton, đó chính là câu chuyện cuộc đời của nhà thơ và cũng là triết gia Voltaire. Tên thật là Francois-Marie Aroueta (1694-1778), ông cũng là người đặt ra khái niệm triết học cho lịch sử (la philosophie de l'histoire) trong tập sách nổi tiếng xuất bản năm 1756: Essai sur les moeurs et l'esprit des nations et sur les principaux faits de l'histoire, depuis Charlemagne jusqu'à Louis XIII. Cũng cần chú ý rằng tên Voltaire là cách chơi chữ (anagram), sắp đặt lại từ tên của ông viết theo tiếng Latin là Arovet LI (le jeune - Aroueta con) mà nhiều người cho là hành động đoạn tuyệt với quá khứ và gia đình, với người bố luôn muốn con làm công chức hơn là làm nhà thơ và triết gia gặp nhiều rắc rối với chính quyền và giáo hội.

Với Voltaire, sự có lý (lý tính - rationalism) là mấu chốt của mọi sự thật, mà thước đo của sự thật là hiểu biết. Hiểu biết được hình thành qua thực nghiệm. Tuy nhiên với giới hạn tư tưởng của thời bấy giờ, những sản phẩm của văn hóa như kiến thức lý tính hay tôn giáo và đạo đức được cho là không phụ thuộc vào không gian và thời gian, lúc nào cũng như thế và ở nơi nào cũng như nhau. Chính vì vậy mà Voltaire coi lịch sử là để chỉ ra sai lầm trong quá khứ và cách tránh, tức là một dạng lịch sử thực dụng. Điểm mới trong phương pháp sử của ông là luôn phải soi sáng những điểm khúc mắc và xác định độ tin cậy, cố gắng loại ra khỏi câu chuyện lịch sử tất cả những gì không có cơ sở từ dữ liệu và ngược lại với hiểu biết thông thường. Cũng vào thời Voltaire mà người ta mở rộng lịch sử ra cho các vùng đất khác như nước Nga và các nước nằm ngoài châu Âu. Và quan trọng nhất, là lịch sử được thế tục hóa, luôn thể hiện mối quan hệ nhân quả. Trong cách nhìn đó, các vấn đề nổi bật nhất trong cuộc sống của các dân tộc là bản năng của con người, khí hậu, mô hình chính trị và quan điểm xã hội.

Thực ra thì lý tính trong tư duy đã có ở châu Âu từ thế kỷ thứ 17, trước thời Khai sáng của Voltaire. Nhưng ở đây khác biệt là lý tính không phải bắt nguồn từ siêu nhiên (supranaturalism) mà là từ chính thế giới tự nhiên, như Voltaire là fan trung thành của Newton, đặc biệt sau ba năm sống ở Anh (1726-1729). Một trong những khái niệm thế giới mà sau này Richard Dawkins dùng lại để viết một quyển sách về thế giới là coi vũ trụ là một chiếc đồng hồ, mà Chúa là người thợ lắp đặt và sửa chữa chiếc đồng hồ đó. Thế giới này chỉ có ý nghĩa (lý giải được) nếu có Chúa. Và như vậy, "nếu Chúa không tồn tại thì phải tìm cho ra". Mặc dù bản thân Voltaire không tạo ra được hệ thống lý thuyết gì để giải thích xã hội, phương pháp viết sử mang tính gợi mở hơn cụ thể cho người bình thường áp dụng, cũng không giải quyết được câu hỏi sâu nào trong triết học, ông vẫn được coi là triết gia Khai sáng nổi bật trong thời kỳ này. Trước hết đó là nhờ lượng công trình đồ sộ mà ông đã tạo ra, được đánh giá như một nhà thơ có quan tâm đặc biệt về triết học, chỉ thường tóm tắt và trình bày ở bề mặt, nhưng lan tỏa đến nhiều tầng lớp xã hội và đem tư tưởng Pháp đến nhiều vùng xa xôi, như mối chân tình mà hoàng đế Phổ Frederick II đại đế đã dành cho ông, hay mối quan hệ với nữ hoàng Nga, và 20 năm cuối đời lãnh đạo phong trào tự do tư tưởng khắp châu Âu từ lâu đài Ferney ở vùng biên giới giữa Pháp và Thụy Sĩ. Nhìn rộng ra thì triết học khai sáng Pháp thời bấy giờ không mạnh và sâu sắc bằng Anh và Đức, nhưng Paris là tâm điểm của mọi hoạt động tri thức và các tác phẩm viết ra bằng tiếng Pháp có sức lan tỏa mạnh hơn, đồng thời do đó triết học Pháp cũng được phê bình nhiều hơn trong các công trình sau này. Quan điểm của Voltaire có thể coi là nằm giữa Descartes và John Locke, và muốn hiểu triết học Voltaire có lẽ cần phải vững môn vật lý, toán học và triết học Newton trước.

Wednesday, September 14, 2011

John K. Whitmore

Đóng góp của John K. Whitmore cho các nghiên cứu Việt Nam và Đông Nam Á

Victor Lieberman 2011, Lê Hải dịch[1]

Tôi vinh hạnh được nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á cùng John Whitmore trên 40 năm, đầu tiên là trợ giảng cho ông ở Đại học Yale và trong 26 năm vừa qua là đồng nghiệp tại Đại học Michigan. Tôi được là người đầu tiên thưởng thức vô số các mối quan tâm nghiên cứu của ông, cả về đề tài lẫn tiến triển, độ nhạy về tư duy, mức quan tâm đến chi tiết minh xác, cách nhìn riêng về khu vực, chưa nói đến khả năng làm việc - một luận đề, ba bộ sách đồng tác giả, thêm ba bộ sách là chủ biên hoặc đồng chủ biên, thêm chừng 50 bài viết các loại. Trong điều kiện hàng chục năm nghiên cứu có thể tóm gọn vào một bài viết ngắn, tiểu luận này sẽ chỉ ra những ảnh hưởng của John vào các nghiên cứu[2] Việt Nam và Đông Nam Á.

Dù rằng, rất nhiều điểm thiếu chuẩn xác trong kiến thức của chúng tôi về nhiều vấn đề cơ bản của lịch sử Việt Nam chắc chắn vẫn còn đó và dù rằng các nhà khoa học tương lai có thể coi nghiên cứu của thế hệ chúng tôi là áp đặt, người ta dễ quên rằng hiểu biết khoa học về Việt Nam trước thời thuộc địa giới hạn đến mức nào khi John bắt đầu nghiên cứu của ông vào giữa thập niên 1960. Trong quyển lịch sử được coi là chuẩn mực xuất bản hồi năm 1964 – tác phẩm 807 trang [Lịch sử Đông Nam Á] A History of South-East Asia[3], vỏn vẹn chỉ có 7 trang dành cho Annam và Tonkin từ sớm nhất là 1620 và chừng 21 trang cho giai đoạn 1620-1820. Cơ bản ở đó có chuyện vua chúa, dòng tộc, các cuộc chiến, bổ sung bằng vài báo cáo về các hoạt động của người phương Tây sau 1620. Chúng tôi đã vượt qua được điểm tiếp cận này để nhìn vào các vấn đề rộng hơn của bản địa hóa và tiếp biến văn hóa, thay đổi xã hội và kinh tế, phân chia trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam, tư tưởng vùng miền ở miền bắc và miền trung Việt Nam, và phát triển quan hệ giữa Việt Nam và các khu vực khác ở Đông Nam Á, đặc biệt là trong giai đoạn 1200 đến 1600, rất nhiều là nhờ công của John Whitmore.

Đề án nghiên cứu đầu tiên của ông, nằm trong luận văn tiến sĩ và tiếp tục bằng nhiều bài viết quan trọng, tập trung vào sự phát triển của nhà Lê thời thế kỷ 15, bao gồm các thay đổi về ý thức hệ mà người ta gọi là cuộc cách mạng Tân Khổng giáo. Trong lúc các nhà khoa học trước đó chỉ ngó sơ qua cơ cấu xã hội và phân chia phe phái của thời Lê (1427-1527) và không chú ý gì đến sự đặc biệt về tổ chức hay tư tưởng chính trị của nhà Lê, thì John cảm nhận được rằng chính quyền nhà Lê chính là nơi pha trộn giữa tư tưởng Tiền Khổng giáo, giai đoạn đại Đông Nam Á cùng với Tân Khổng giáo, và quá trình ảnh hưởng Trung Hoa hẹp trong lịch sử Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa chống quân Minh (1407-1427) tạo ra nhà Lê được John coi không chỉ đơn giản là một cuộc khởi nghĩa yêu nước như diễn giải của các sử gia Mác-xít hay theo tư tưởng dân tộc, mà như là một phong trào của nông dân, phần nào có biết chữ, chủ yếu là người Việt, tầng lớp lãnh đạo địa phương ở Thanh Hóa trong vùng miền núi phía nam chống lại sự thống trị của một tầng lớp lãnh đạo, nho sinh được giáo dục theo hệ thống Trung Hoa ở đồng bằng sông Hồng, xây dựng sự nghiệp cùng với quân chiếm đóng nhà Minh. Sau khi đánh đuổi nhà Minh thì câu hỏi đặt ra tất nhiên là ai sẽ ảnh hưởng nhiều trong chính quyền, và trong hơn 3 thập niên, phe quân sự Thanh Hóa cùng hậu duệ đã thắng. John chứng minh rằng chỉ sau thay đổi của Lê Thánh Tông vào năm 1460 thì chính sách mới bắt đầu cân bằng hơn. Trong khi tiếp tục dành cho các gia đình quân nhân Thanh Hóa những vị trí cao, đặc biệt trong quân đội, người lãnh đạo mới với cả ý thức về luật nhà Minh lẫn ứng xử tế nhị với giới khoa bảng, đã tạo ra nhiều thay đổi trong tổ chức và chính sách không ngại hướng về các tiêu chuẩn nhà nước của Trung Quốc.

Về mặt hành chính, cuộc cách mạng Tân Khổng giáo bắt đầu thời Lê Thánh Tông đã chuyển lối lãnh đạo cá nhân và địa phương về hướng các kỳ thi làm quan chức định kỳ, hệ thống hành chính thực sự ở trung ương, các tổ chức theo kiểu nhà Minh được chỉnh sửa, và hệ thống sổ thuế ở các tỉnh, cũng như gia tăng đáng kể thông tin bằng văn bản giữa thủ đô và vùng quê, và cuộc cải tổ quân sự kiểu nhà Minh. Về văn hóa, Lê Thánh Tông cũng tăng tốc chuyển đổi từ hệ thống tôn giáo trộn lẫn tục thờ thần, thờ Khổng và thờ Phật tương tự như ở các chế độ khác ở Đông Nam Á - nơi mà nhân vật nam làm lãnh đạo, tức là cơ chế “vua” sẽ phong thần cho các thành hoàng để có lợi cho chính quyền, nhưng không quan tâm gì đến các định chế xã hội – sang thành hệ chính thống Tân Khổng giáo với cơ chế “hoàng đế” cư xử như biểu tượng của đạo đức và chuyển đổi xã hội qua quan hệ gia đình và ảnh hưởng luân lý. Về đối ngoại, nhiều thế kỷ chấp nhận văn hóa láng giềng Ấn Độ nhường chỗ cho quá trình “mọi rợ” phải tiếp nhận các tiêu chuẩn “văn minh”. Trên thực tế thì đó là cuộc tấn công và tách ly láng giềng phía nam của Việt Nam là Chămpa, và việc tăng tốc đầy kịch tính quá trình thuộc địa hóa miền nam. Cũng với cùng tinh thần này chế độ mới mở rộng quyền lực nhanh chóng về phía vùng núi của người Thái ở phía tây. Mặc dù mỗi nơi có khác và duy trì ảnh hưởng mạnh yếu khác nhau, các qui định chính trị và văn hóa, chưa nói đến tham vọng lãnh thổ, dưới triều Lê Thánh Tông đặt ra một mô hình cho các lãnh đạo Việt Nam đem vào thế kỷ 19. Chỉ từ cuối thập niên 1400s chúng ta mới có thể nhắc một cách chắc chắn và rõ ràng về một vùng ảnh hưởng[4] của Khổng giáo Trung Hoa trên phần lục địa Đông Nam Á, phân biệt rõ với khu vực ảnh hưởng của Ấn Độ và Phật giáo tiểu thừa ở phía tây và nam Việt Nam. Cho nên, nói về tầm quan trọng bản lề của triều Lê mới, thì John là người đầu tiên phát hiện ra.

Nhưng vậy thì Việt Nam bước vào khúc ngoặt ở thế kỷ 15 như thế nào? Quan trọng là trong một giai đoạn ngắn, John khẳng định rằng không phải các phe phái chính trị trong triều hồi thập niên 1460s lẫn vai trò của Lê Thánh Tông có thể giúp giải thích sự chuyển đổi mạnh và chắc chắn như vậy - sự thay đổi mạnh đến nỗi làm suy yếu cơ sở ban đầu của nhà Lê dựa trên lực lượng Thanh Hóa. Sau khi mô tả những chuyển đổi trước đó của nhà Lê, John quyết định nghiên cứu nhà hậu Lý (1009-1225) và nhà Trần (1225-1440) để bóc tách những gì ông đã suy diễn, chính xác như là đã dự đoán, rằng những chuyển đổi nhẹ nhàng nhưng đáng kể trong kinh tế, tri thức và chính trị qua vài thế hệ đã mở đường cho sự thay đổi ban đầu của triều Lê.

Để chuẩn bị cho nghiên cứu này, trong tiểu luận quan trọng vào năm 1986 [Voi thực sự có thể bơi] Elephants Can Actually Swim[5], ông đã dùng các tài liệu Trung Hoa để minh chứng qua một số chi tiết về độ gần của Việt Nam trong thập niên 1200s với thể chế Ấn Độ như các nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Về cơ bản ông tạo ra một đường cơ sở để đo độ dịch chuyển của Việt Nam vào năm 1500. Giai đoạn 900-1220 các mối quan hệ gia đình ngay cả trong triều thường là lỏng lẻo và cả hai giới, hơn là phụ hệ. Giáo phái Indra phối hợp giữa Ân giáo và Phật giáo, tương tự như ở Pagan và Angkor, được dùng để kết hợp thần thánh địa phương. Tôn giáo thủ đô thì pha trộn, lẫn lộn, và không có chủ thuyết rõ ràng, còn uống máu ăn thề là nghi lễ man rợ để kết nối. Hệ thống hành chính cỡ như hệ thống chính trị trung ương phân quyền của Pagan và Angkor, thuế má lúc có lúc không; bộ máy hành chính và quá trình đào tạo nói chung là giới hạn; trong khi các thể chế tôn giáo tự trị của Phật giáo được hưởng quyền tự trị cũng giống như các nơi khác trên lục địa trước 1250. Nói một cách khác, dưới thời Lý, bất kể ảnh hưởng đặc biệt của Trung Quốc, Việt Nam là một phần của khu vực văn hóa lỏng lẻo pha trộn Phật giáo, Ấn giáo và đạo thờ thần cũng như các quốc gia ở cả vùng lục địa lẫn trên các đảo của Đông Nam Á. Những phát hiện của John cũng được xác nhận trong công trình của Keith Taylor và O.W. Wolters[6].

John cũng phát hiện thấy sự xâm nhập chủ yếu của văn hóa Trung Hoa vào giới tri thức Việt Nam bắt nguồn từ sự gia tăng ngoại thương từ thế kỷ 12 đến 15. Mặc dù nhá Lý, không giống triều đại Pagan và Angkor lúc bấy giờ, dựa vào khu vực cao hơn, trung lưu con sông trong lãnh thổ hơn là phần đất bờ biển, sự gia tăng số thương gia Trung Quốc[7] dưới thời Nam Tống (1127-1276) đã khuyến khích các mối liên kết bờ biển trong khu vực hạ lưu sông Hồng, nơi tuyến đường biển tập trung vào cảng mới ở khu vực Vân Đồn[8]. Tăng ngoại thương đường biển cũng giúp tăng làn sóng thương gia Trung Quốc và tăng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc liên kết với sự phát triển của chính Trung Hoa ở vùng biển đông nam. Trong vai trò hưởng lợi từ ảnh hưởng của văn hóa nho sinh và tài sản biển, nhà Trần (1225-1400) vốn là hậu duệ của những người Trung Quốc nên đã ủng hộ sự ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc trong triều và ở thủ đô. Đặc biệt, nhà Trần lần đầu tiên cấp chức vụ cao hơn cho các khoa sinh tốt nghiệp, dùng hệ thống đăng ký nhân khẩu theo kiểu Trung Quốc để tiếp cận nguồn nhân lực làng xã, và áp đặt mô hình Trung Quốc trong truyền ngôi, mà sau này trở thành qui tắc vĩnh viễn. Tuy nhiên nhà Trần cũng tiếp tục chấp nhận các hình thức văn hóa trước đó và giữ nguyên hệ thống chính quyền tướng lãnh hơn là quan lại, nơi những mối quan hệ cá nhân, gia cảnh và phe nhóm vẫn còn mang tính quyết định và các hoàng tử nhà Trần hơn là các quan nho văn vẫn còn kiểm soát hệ thống quyền lực. Nói cách khác, nhà Trần thể hiện một giai đoạn chuyển đổi giữa mô hình chính quyền bản địa hơn là hoàn toàn theo mô hình Trung Hoa.

Cũng như John đã diễn giải, đối trọng về tri thức với những thay đổi xã hội và chính trị đó là sự gia tăng ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo Trung Hoa thời bấy giờ, bắt đầu từ thập niên 1330s, rời bỏ tư tưởng Phật giáo sang Khổng giáo cổ điển, ví dụ như thể hiện qua học giả Việt Nam Chu Văn An. Sang thế kỷ 14 ảnh hưởng của Khổng giáo càng thêm áp đảo. Lập luận của John cho rằng đây là kết quả trưc tiếp của cuộc khủng hoảng lớn và nhiều mặt trong kinh tế và chính trị khiến đất nước bị Chế Bồng Nga (mà John gọi là “vị vua vĩ đại cuối cùng” của Đông Nam Á thời cổ điển) chiếm đóng từ phía nam, mà cuối cùng đã chuyển hướng nhà Trần, và khiến cho giới nho sinh Việt Nam phải tuyệt vọng tìm phương pháp tái lập ổn định. Từ khủng hoảng này, đầu tiên hiện ra triều đại ngắn ngủi của Hồ Quý Ly, cũng là một hậu duệ Trung Hoa ở bờ biển, muốn ủng hộ một hệ phái đặc biệt của tư tưởng Trung Hoa cổ điển, và sau đó là cuộc chiếm đóng của nhà Minh (1407-1427) nhằm tái lập “chính danh” và đưa “văn minh” vào vùng đất Việt Nam đầy bất ổn. Thông qua hệ thống trường lớp và ủng hộ giáo dục, nhà Minh đã cắm sâu đáng kể ảnh hưởng nho giáo vào Tonkin (Bắc Bộ) và nuôi dưỡng cho hệ thống Tân Khổng giáo hiện đại mà Lê Thánh Tông sau này sẽ đưa vào cuộc cách mạng trong tổ chức chính phủ và văn hóa chính thống. Các diễn biến nhiều mặt này diễn ra trong khoảng từ 1300 đến 1427, hoàn toàn then chốt để hiểu hệ thống Tân Khổng giáo của Lê Thánh Tông, đã được John trình bày trong tập sách quan trọng về Việt Nam [Hồ Quý Ly và triều Minh] Ho Quy Ly, and the Ming (1371-1421) và nhiều bài viết tham dự hội thảo sau này.

Nếu đây là tất cả những gì mà John đã nghiên cứu, thì chúng ta đã vô cùng biết ơn rồi, nhưng trên thực tế ông còn không ngại kể tiếp câu chuyện xã hội và văn hóa sang thế kỷ 16. Quan trọng hơn cả là ông nhìn thế kỷ 16 như cuộc đấu tranh tiếp diễn giữa một bên là tầng lớp nho sĩ ở đồng bằng thể hiện qua nhà Mạc đã thay thế nhà Lê và chiếm Đông Kinh từ 1527-1592, còn bên kia là các lãnh tụ quân sự ít ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc và trấn giữ từ Thanh Hóa đến Nghệ An trên các vùng cao. Trong vai trò kế thừa văn hóa từ nhà Lê, nhà Mạc tiếp tục củng cố bộ luật Tân Khổng giáo, trường học, và các kỳ thi ba năm một. Việc họ thất thế năm 1592 giúp xu hướng chuyên chính võ biền có phần thắng thế, nhưng thế mạnh và uy tín của giới nho sinh giúp luật lệ Tân Khổng giáo tiếp tục được duy trì và ảnh hưởng đáng kể vào cuối thế kỷ 17, cuối thế kỷ 18 và đa phần thế kỷ 19. Ảnh hưởng này tiếp tục gia tăng cả ở phía nam lẫn phía bắc.

Nói ngắn gọn, John đã đặt cuộc cách mạng Tân Khổng giáo trong bối cảnh 4 thế kỷ phát triển chính trị, văn hóa và xã hội. Chắc chắn ông không phải là chuyên gia duy nhất nghiên cứu nhà Trần, gian đoạn đầu của nhà Lê, hay nhà Mạc. Có người nhắc đến ví dụ như là công trình của O.W. Wolters về lịch sử tri thức, hay nghiên cứu của Keith Taylor về nguồn gốc ở thế kỷ 16 của tiến trình Nam tiến của Việt Nam, hoặc các nghiên cứu về kinh tế, chính trị và pháp lý của Li Tana, Esta Ungar và Insun Yu. Nhưng không có gì là nói quá nếu cho rằng những hiểu biết hiện nay của chúng ta về bốn thế kỷ then chốt trong lịch sử Việt Nam, từ 1200 đến 1600, phần nhiều là từ các công trình nghiên cứu không mệt mỏi và đầy thuyết phục của một người: John Whitmore.

Và chừng ấy vẫn chưa hết những công lao của John như đã không mệt mỏi đưa ra cái nhìn toàn phần[9] về lịch sử lâu dài (longue dureé) của Việt Nam trước thời thuộc địa và mối quan hệ với các mô hình trong khu vực. Đặc biệt giá trị với những sinh viên quan tâm đến “bức tranh lớn”, những nghiên cứu này kết nối những sự kiện và qui luật trong giai đoạn 1200-1600 với những gì xảy ra trong giai đoạn Nam Bắc phân tranh (1620-1802) và chính quyền thống nhất của nhà Nguyễn trong thế kỷ 19. Trong nhiều trường hợp các nghiên cứu đó cũng đưa ra những so sánh điểm giữa Việt Nam và khu vực Đông Nam Á ảnh hưởng Ân Độ, thậm chí cả Triều Tiên. Thể hiện một dải rộng các mối quan tâm khoa học và khả năng trong phương pháp, những góc nhìn toàn phần đó bao gồm cả một nghiên cứu tuyệt vời - chắc chắn là lịch sử tiền tệ hay nhất trong số các tác phẩm đề cập đến Đông Nam Á - về nguồn chảy quốc tế của tiền xu vào và quanh Việt Nam từ thế kỷ 13 đến 18 cùng ảnh hưởng vào xã hội và kinh tế địa phương, hay một công trình khảo sát sự thay đổi của vai trò phụ nữ ở Việt Nam trong thiên niên kỷ thứ hai, rồi là một phân tích thật khéo léo về bản đồ Việt nam từ giữa thập niên 1400s đến cuối 1800s, và cả một nghiên cứu về vai trò của các thủ đô thứ hai trong lịch sử Việt Nam, cái nhìn toàn phần về thương mại đường biển của Việt Nam và Đông Nam Á trong giai đoạn 1000 đến 1600, ba khảo sát về ảnh hưởng của giới nho sinh và xu hướng lâu dài về hệ thống hành chính Trung Hoa, và so sánh giữa tổ chức xã hội – bao gồm di sản, giai cấp và di cư - của Việt Nam thời tiền thuộc địa với các phần khác ở Đông Nam Á. Nghiên cứu vừa kể cho thấy độ lỏng và tính nước đôi của Đông Nam Á dần bị khắc chế và chuyển kênh sang hệ thống phụ hệ và gia đình Khổng giáo.

Cuối cùng, mặc dù là sử gia về thời tiền thuộc địa của Việt Nam, John cũng là tác giả hoặc đồng tác giả của một vài nghiên cứu về di dân người Việt ở Hoa Kỳ, cuộc đấu tranh vươn lên tầng trên của xã hội, các thành công về kinh tế, và viễn kiến trong ngành đại học. Như vậy ông đã đưa Việt Nam học đến thời đương đại.

Nói ngắn gọn, qua nỗ lực không ngừng và tiếp cận sáng giá, John Whitmore đã đặt dấu ấn riêng cho toàn bộ một khu vực sử học. Hơn vậy, ở giữa con đường nghiên cứu đã ở thập niên thứ năm của ông, tôi hạnh phúc nói rằng năng suất lao động của John có vẻ như chỉ có tăng.



[1] GS Victor Lieberman dạy ở khoa sử Đại học Michigan, lấy bằng tiến sĩ năm 1976 ở Đại học London sau thời gian nghiên cứu ở Đại học Yale. Bài gốc có tựa đề John K. Whitmore’s contribution to Vietnamese and Southeast Asian studies, trang 15-19 trong tập sách do Michael Arthur Aung-Thwin và Kenneth R. Hall biên tập, New Perspectives on the History and Historiography of Southeast Asia – continuing explorations do hai thế hệ học trò của Whitmore viết để vinh danh ông, Routledge vừa xuất bản năm 2011. Các chú thích trong bản gốc được lược bỏ vì chủ yếu là dẫn đến các tác phẩm thao khảo, cũng như 4 trang mục lục các tác phẩm mà Whitmore đã viết. Độc giả có thể tìm đọc một số bài viết của ông đã được Ngô Bắc đã dịch sang tiếng Việt ở trang http://www.gio-o.com/NgoBac.html. Chú thích trong bài này là của người dịch.

[2] Chữ trong bản gốc là Vietnam studies hay Southeast Asian studies là một ngành học tổng hợp, gọi là Việt Nam Học và Đông Nam Á Học. Tuy nhiên đó là một ngành học liên ngành và lấy hệ thống lý thuyết từ khu vực học – area studies, ngành học khởi nguồn từ Hoa Kỳ mà hiện ở Việt Nam cũng đang bắt đầu phổ biến với ảnh hưởng mạnh từ hệ phái Nhật Bản, như một số sách giáo khoa và bài giảng tiếng Việt trên mạng http://publisher.vnu.edu.vn/home/node/65, http://ocw.tdt.edu.vn/course/view.php?id=271, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/specials/170_viet_studies/page19.shtml. Bài này dịch ở đây cũng như ở tựa đề là “các nghiên cứu” vì muốn làm hiện rõ nghĩa về ảnh hưởng của quan điểm sử học của Whitmore vào các công trình khác sau này.

[3] Theo chú thích của tác giả Victor Lieberman thì D.G.E. Hall dựa chủ yếu vào quyển lịch sử bằng tiếng Pháp của Lê Thành Khôi, Le Viet-Nam: Historie et Civilisation trong Editions de Minuit xuất bản ở Paris năm 1955.

[4] Độc giả muốn hiểu rõ hơn về hình thái Khổng giáo tại Việt Nam có thể đọc bản dịch tiếng Việt do Ngô Bắc thực hiện từ bài luận của John Whitmore trong tạp chí nghiên cứu The Vietnam Forum do ĐH Yale xuất bản năm 1987 (số 9, Winter-Spring, trang 49-65): From Classical Scholarship to Confucian Belief in Vietnam [Từ giáo dục cổ điển thành đạo Khổng tại Việt Nam], bản trên mạng tại địa chỉ: http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacJohnKWhitmoreKhongHoc.htm. Gần đây John Whitmore tiếp tục có bài viết về tôn giáo và lễ nghi ở triều chính Đại Việt (Religion and Ritual in the Royal Court of Đại Việt), toàn văn tiếng Anh có thể đọc tại trang nhà của Đại học quốc gia Singapore ở địa chỉ http://www.ari.nus.edu.sg/docs/wps/wps09_128.pdf, trung tâm nghiên cứu châu Á ARI xuất bản năm 2009.

[5] Độc giả quan tâm có thể đọc bản dịch tiếng Việt của Ngô Bắc ở địa chỉ http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacJWhitmore2Elephants.htm

[6] Độc giả quan tâm hơn đến quan điểm này có thể đọc bài viết của Keith Taylor trong hội thảo vinh danh GS Wolters về giai đoạn Lý Phật Mã (1028-1054) và Lý Nhật Tôn (1054-1072) http://www.gio-o.com/NgoBacKWTaylorSuKyToanThu.htm. Ngô Bắc cũng dịch khá nhiều bài của Wolters trên trang này.

[7] Bài phân tích kỹ hơn về mối quan hệ giữa thương gia Trung Quốc và nho sĩ Việt Nam được đăng trên tạp chí Hoa kiều năm 2010 http://csds.anu.edu.au/volume_4_2010/05-3_Whitmore_2010.pdf

[8] Bài viết quan trọng về đề tài này của John K. Whitmore cũng đã được Ngô Bắc dịch sang tiếng Việt, lưu trữ trên mạng ở địa chỉ http://www.gio-o.com/NgoBacJohnWhitmoreBien1.htm

[9] Sinh viên ngành sử thường tham khảo niên biểu do Whitmore biên soạn ở địa chỉ mạng http://afe.easia.columbia.edu/main_pop/kpct/ct_vietnam.htm, hay bài khái quát trên tạp chí đặc biệt The Vietnam Forum http://www.yale.edu/seas/VF8.pdf. Độc giả quan tâm muốn tìm các bài viết hay sách tiếng Anh trên mạng về lịch sử Việt Nam chỉ cần đánh tên John K. Whitmore hoặc cụm từ John Whitmore Vietnam là sẽ google ra vô số công trình nghiên cứu mớI nhất vì hầu hết đều trích dẫn hoặc đi theo con đường của John K. Whitmore.

Tuesday, September 13, 2011

A study of local knowledge in U Minh Thuong area of the Mekong estuary

Bài đăng ký dự hội thảo quốc tế ĐNÁ học tại Salaya, Thái Lan 1-2.XII.2011, tóm tắt từ luận văn TS do GS Ngô Đức Thịnh hướng dẫn.

Local knowledge is promoted by World Bank as a useful lever for development in a Southeast Asian country like Vietnam. My PhD thesis looks at folklore knowledge in the U Minh Thượng area or a part of the Mekong estuary in an attempt to understand how that specific environment shaped the culture of the Vietnamese migrants since the 18th century and how that memory is exploited in local life in the 21th century. The historical knowledge is embedded in oral comedy, rituals and material culture and has not been seen as the Knowledge defined by colonisation, modernisation and official education. But it has successfully maintained life and development in this difficult area for the last 300 years. That valuable memory should be recorded into Knowledge and reflected in policy-making, urbanisation or alteration of landscape, as well as agricultural development and demographic processes.


TÌM HIỂU TRI THỨC DÂN GIAN CỦA NGƯỜI VIỆT VÙNG U MINH QUA CÁCH ỨNG XỬ MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN

TRONG ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT

- TS. Nguyễn Diệp Mai -

U Minh là vùng đất rừng trầm thủy nằm ở vị trí Tây Nam - Việt Nam có lịch sử văn hóa - dân cư - dân tộc đặc thù mang dấu ấn của vùng đất trẻ được khai mở sau cùng của Việt Nam. Tri thức dân gian (TTDG) của người Việt vùng U Minh là một bộ phận của văn hóa dân gian(1) (VHDG) chủ yếu là sự hiểu biết về môi trường tự nhiên và cách thức ứng dụng kinh nghiệm đó vào đời sống thực tế. Kinh nghiệm được đúc kết, trao truyền và vận dụng như thế nào để có thể phục vụ cho nhu cầu ăn - ở - mặc - đi lại và tồn tại ở vùng đất U Minh. Mục tiêu của bài viết là góp một phần nhỏ để giới thiệu với bạn đọc quan tâm tìm hiểu kho tàng tri thức của người dân vùng U Minh.

1. Môi trường sống đặc biệt làm biến đổi thái độ ứng xử với tự nhiên của người Việt vùng U Minh

Trong tiến trình khai thác vùng đất Nam Bộ, người Việt đã mang theo văn hóa truyền thống vùng châu thổ sông Hồng của mình đến vùng đất mới. Cảnh quan và điều kiện MTTN ở vùng đất mới tác động mạnh mẽ đến hoạt động sống của họ. Để tồn tại được, họ phải thích ứng và tìm ra phương thức ứng xử phù hợp với môi trường sống mới ấy. Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên tồn tại gắn bó hữu cơ trong một thể thống nhất, có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, tốt và xấu trong suốt quá trình vận động và phát triển.

“U Minh, Rạch Giá thị hóa sơn trường

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua”

(Ca dao)

Xét về bối cảnh là cộng đồng dân cư vùng U Minh hình thành trên một vùng đất xuất phát từ MTTN hoang dã – cảnh quan nguyên thủy, dần trở thành cảnh quan có hoạt động của con người - cảnh quan văn hóa. Người dân nơi đây chủ động thiết lập mối quan hệ với MTTN thông qua việc khám phá, khai thác và biến đổi để thích ứng. Tư duy đó được hình thành từ thời điểm đầu tiên lưu dân đặt chân lên vùng đất hoang dã và sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên đến khi họ tích lũy được vốn tri thức đủ để khai thác tài nguyên thiên nhiên (TNTN) phục vụ cho đời sống vật chất (ĐSVC) của mình. Kinh nghiệm để tồn tại và phát triển của thế hệ lưu dân đầu tiên tích lũy được bảo tồn, lưu truyền cho các thế hệ nối tiếp và được xem là kho tàng tri thức của người dân địa phương.

Vùng đất U Minh chằng chịt sông nước, rừng rậm, đồng trũng…đã tạo thành sắc thái văn hóa sông nước rất đặc thù và sắc thái này thể hiện rất rõ trong cách ứng xử với MTTN của họ. Để có thể sinh sống, tồn tại và phát triển trong MTTN khác biệt như vùng U Minh, lưu dân người Việt phải làm mọi cách để đáp ứng được bốn nhu cầu cơ bản: ăn - ở - mặc – đi lại. Muốn làm được điều này họ cần phải khám phá, thích ứng với thiên nhiên, khai thác TNTN. Trong suốt quá trình đó họ đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vận dụng vào hoạt động đời sống hàng ngày. Từ hiểu biết về bản thân con người, họ đã vận dụng vào điều kiện tự nhiên của môi trường sống mới để bản đảm cho cơ thể có thể thích ứng và phát triển khỏe mạnh. Đối với vùng Nam Bộ nói chung và U Minh nói riêng, do điều kiện là vùng đất mới được khai mở từ MTTN hoang dã nên con người cần liên kết với nhau để cùng tồn tại. Chính vì vậy, song song với quá trình khai thác, cộng đồng người sinh sống trong MTTN đó hình thành mối quan hệ xã hội nhằm quản lý nhau để cùng khai thác, hưởng lợi và bảo tồn nguồn lợi thiên nhiên. Trong việc khai thác TNTN ở vùng U Minh mối quan hệ ứng xử với tự nhiên và cách thức quản lý cộng đồng thể hiện rất rõ. Những hoạt động đó chính là những giá trị văn hóa do con người sáng tạo và đó cũng chính là nguồn gốc hình thành nên kho tàng TTDG của người Việt vùng U Minh. Vì vậy có thể xem ứng xử với MTTN ở vùng U Minh là hình thức biểu hiện giá trị văn hóa được người Việt tích lũy lưu truyền qua nhiều thế hệ, trở thành nếp sống của họ.

Trong suốt quá trình khám phá và chinh phục, người dân nơi đây vẫn phải chịu sự tác động ngược chiều của thiên nhiên, hứng chịu tác hại do hành động khai thác quá mức nguồn TNTN, cố tình thay đổi qui trình vận động và phát triển của tự nhiên. Đó chính là sự tương tác không thể tách rời giữa con người và thiên nhiên mà trong đó con người luôn đóng vai trò chủ động. Kinh nghiệm về môi trường sống được tích lũy trong suốt thời gian hơn 300 năm định cư tại vùng đất U Minh dài đã được ứng dụng vào hoạt động cụ thể trong đời sống vật chất. Trong quá trình đó tri thức và tính cách của người Việt vùng U Minh được hình thành. Đó chính là sản phẩm văn hóa do người Việt sáng tạo ra trên nền tảng văn hóa truyền thống của mình ở vùng đất mới.

2. Quá trình hình thành hệ thống tri thức dân gian của người Việt ở vùng U Minh

Cộng đồng dân cư trên vùng đất U Minh được hình thành qua một quá trình cộng cư đấu tranh với thiên nhiên lâu dài để tồn tại: “Trong sách Le Royaume du Cambodge của J.Moura (xuất bản Pari 1883) đã khái quát đặc tính của cư dân sống ở vùng đất mới: “Lưu dân Việt Nam tha phương cầu thực đến đâu cũng giữ tình máu mủ đồng bào, quần tụ, tương trợ lẫn nhau, sống thành làng mạc” [42, tr.111]. Vấn đề dân tộc bao giờ cũng là vấn đề xã hội vừa phức tạp vừa phong phú. Người Việt, người Hoa(1), người Khmer và người Mã Lai(2), khi thì ở lẫn lộn với nhau, khi thì ở riêng biệt. Do chính sách cai trị của nhà Nguyễn với phần đất mới này cũng còn lỏng lẻo, không gò bó vào khuôn khổ nhất định để cho mọi thành phần tự do phát triển nên hầu như ít có sự đối kháng về văn hóa cũng như lợi ích xã hội giữa 3 dân tộc. Quá trình hình thành hệ thống dân cư ở vùng U Minh cũng là quá trình cùng chinh phục thiên nhiên để tồn tại. Họ phải trả giá cho sự nhận thức về thiên nhiên của mình bằng chính cuộc sống của họ. Vì vậy, mặc dù còn xa lạ với hoàn cảnh tự nhiên nhưng lưu dân người Việt sớm hòa nhập, định hình cuộc sống, phải "phá sơn lâm, đâm hà bá". Muốn tồn tại ở đây họ phải đoàn kết tương trợ lẫn nhau, kết hợp với người Khmer và Hoa cộng cư để tồn tại và phát triển. Trong quá trình từ lúc đặt chân đến khai phá và cư trú trên vùng đất này cả người Việt, người Khmer và người Hoa đều “học hỏi” lẫn nhau để sáng tạo ra cách thức thích ứng với vùng đất U Minh. Qua các nguồn tài liệu cho thấy không có sự phân biệt “độc quyền” về nghề nghiệp, hoạt động sinh hoạt tinh thần riêng biệt của từng dân tộc trên vùng đất U Minh. Sự hòa đồng về văn hóa thể hiện rất rõ.

Nhu cầu ăn để tồn tại chủ yếu là kinh nghiệm khai thác nguồn thực phẩm tự nhiên, cách thức chế biến các món ăn, sự thích ứng với điều kiện tự nhiên để tạo ra cái ăn và mối quan hệ cộng đồng qua việc ăn uống. Trải qua nhiều thế hệ người Việt vùng U Minh đúc kết thành kinh nghiệm trong việc làm sao để tạo ra được cái ăn theo nhu cầu mà vẫn phù hợp với điều kiện môi trường sống. Tri thức đó ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày cụ thể trong từng món ăn, từng gia đình, từng cụm dân cư tạo thành nét riêng trong văn hóa ăn uống của một vùng. Việc tạo ra cái ăn đã minh chứng rõ ràng nhất về cách ứng xử của con người với thiên nhiên. Ẩm thực vùng U Minh là một phần của kho tàng TTDG.

Tính thích ứng với MTTN của trang phục, tính thẩm mỹ về trang phục và sự tiếp nhận cái mới trong cách mặc chính là nhu cầu mặc của người dân địa phương. Mặc là nhu cầu dễ tiếp nhận cái mới, dễ biến đổi nhất so với các nhu cầu vật chất khác. Do tính cách phóng khoáng, ưa tiện dụng, không thích kiểu cách nên nhu cầu mặc ở vùng U Minh tương đối đơn giản, không bức thiết như các nhu cầu vật chất khác. Cách mặc của người Việt vùng U Minh cơ bản giống người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ nhưng đã được cải biên phần lớn từ kiểu trang phục 4 mùa thành loại trang phục mùa hè duy nhất và nhanh chóng biến đổi theo thị hiếu thời đại. Nguyên vật liệu để tạo ra trang phục hầu như không sản xuất ở vùng U Minh nên vấn đề tìm nguyên vật liệu để tạo trang phục ít được quan tâm.

Ở như thế nào, ở nơi đâu, kiến trúc nhà ra sao để thích ứng được với MTTN của nơi cư trú và khai thác tài nguyên phục vụ cho việc tạo dựng nơi ở chính là vấn đề cơ bản của nhu cầu ở. Xét ở góc độ địa lý tự nhiên, vùng U Minh từ thế kỷ XVII – XIX, trải rộng gần như bao trùm cả Tây Nam Bộ cùng với hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt đã tạo nên một sắc thái kiến trúc nhà ở mang đặc thù của sông nước nhiều hơn yếu tố đồng bằng. Hoạt động khai thác TNTN để phục vụ cho nhu cầu xây cất nhà cửa là vấn đề liên quan mật thiết đến việc làm biến đổi hệ sinh thái của vùng U Minh. Khai thác thế nào, ở đâu, lúc nào và bảo vệ nguồn lợi này ra sao là kho tàng tri thức được tích lũy đúc kết qua nhiều thế hệ. Và việc vận dụng tri thức đó trong đời sống thực tế có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống hiện nay.

Đi lại vùng U Minh chủ yếu là đường thủy nên việc hiểu biết đặc điểm địa hình của mạng lưới sông nước để tạo ra phương tiện đi lại, vận dụng và sáng tạo các phương thức di chuyển thích nghi với địa hình là vấn đề cốt lõi của nhu cầu đi lại. Lưu dân đến vùng U Minh đã sớm biết vận dụng và sáng tạo những loại phương tiện phù hợp với địa hình để phục vụ ĐSVC. Nhiều loại hình ghe, xuồng mới được họ tiếp tục cải biên, sáng chế từ việc tiếp nhận sản phẩm mới của khoa học kỹ thuật hiện đại đặc biệt như chiếc xuồng ba lá và chiếc vỏ tắc ráng.

Trong quá trình lịch sử hình thành dân cư - dân tộc tại vùng U Minh, người Việt đã tạo dựng kho tàng TTDG riêng cho mình để lưu truyền phục vụ cho chính cuộc sống của mình. Kho tàng tri thức đó được xây dựng trên cơ sở giải quyết 3 mối quan hệ:

- Giữa vốn tri thức truyền thống mang theo trong tiềm thức với MTTN và điều kiện xã hội trên vùng đất mới.

- Giữa vốn tri thức mang đặc thù văn hóa tộc người Việt với vốn tri thức mang đặc thù văn hóa của 2 tộc người Khmer, Hoa cùng cộng cư.

- Giữa tri thức truyền thống tại địa phương với tri thức hiện đại.

Như người Việt trên các vùng Nam bộ khác, người Việt vùng U Minh giai đoạn đầu sống dựa vào nguồn lợi thiên nhiên nhưng không phụ thuộc hoàn toàn. Họ khai thác tài nguyên và ứng xử với MTTN ở vị thế là người có đủ tri thức để sống hòa đồng cùng thiên nhiên và khai thác nguồn tài nguyên để tồn tại và phát triển. Họ sử dụng hiểu biết của mình về thiên nhiên để tìm ra những điều kiện thuận lợi hoặc tác động vào MTTN theo hướng có lợi cho mình. Vốn hiểu biết của họ được đúc kết và trả giá bằng mồ hôi, xương máu, sức lao động của nhiều thế hệ, qua mỗi thế hệ nó được ứng dụng và biến đổi theo nhận thức và khả năng của người tiếp nhận. Vốn hiểu biết đó luôn hàm chứa tính thực dụng, giản tiện theo lối tư duy cư dân nông nghiệp pha trộn sắc thái sông nước phóng khoáng.

Hệ thống TTDG về ứng xử với MTTN của người Việt vùng U Minh chủ yếu hình thành trên bốn lĩnh vực cơ bản của ĐSVC là ăn - mặc - ở - đi lại (chủ yếu là đường thủy). Vốn tri thức ở mỗi phần đều có một quá trình từ khi cảnh quan vùng U Minh còn hoang dã cho đến khi được khai phá trở thành cụm dân cư có đủ điều kiện sống hiện đại như ngày nay. Giá trị của TTDG của người Việt vùng U Minh trong cuộc sống luôn song hành với thiên nhiên, tính tích cực và tiêu cực của việc ứng dụng tri thức đó biểu hiện rất rõ trong quá trình chinh phục thiên nhiên. Có những phần tri thức trong mỗi lĩnh vực biến đổi khác nhau và liều lượng tiếp nhận tri thức hiện đại khác nhau. Có những phần biến đổi hoàn toàn về bản chất, cũng có những phần lại hầu như không biến đổi, lại có những phần hiện nay hoàn toàn biến mất khỏi đời sống của cộng đồng dân cư. Sự biến đổi này phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện môi trường sống của họ. Theo số liệu thống kê Vùng U Minh từ thế kỷ XVII – XIX, trãi rộng gần như bao trùm cả Tây Nam bộ, đến những năm 1930 chiếm hơn 30% diện tích toàn vùng bán đảo Cà Mau và rừng tràm hiện nay chỉ còn 1,45%. Toàn bộ đất rừng được khai hoang đã trở thành đất nông nghiệp, xây dựng đô thị, cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống xã hội. Sự biến đổi nhanh chóng này là nguyên nhân chính tạo nên sự biến đổi của về bản chất của hệ thống TTDG vùng U Minh.

3. Từ khái niệm “tri thức dân gian” đến tri thức dân gian của người Việt vùng U Minh

Theo thống kê có rất nhiều khái niệm về đối tượng là “sự hiểu biết của người dân địa phương về nơi sinh sống” được các nhà nghiên cứu văn hóa xem như là “tri thức dân gian”, “kiến thức bản địa”, “kiến thức dân gian” hay “kiến thức truyền thống”… và được sử dụng với nghĩa tương đồng. Theo các nhà nghiên cứu TTDG là hệ thống của sự hiểu biết được giới hạn trong phạm vi của 1 cộng đồng trên 1 địa bàn cư trú nhất định. Khái niệm về “tri thức dân gian” của GS.TS Ngô Đức Thịnh [33, tr.2] và của World Bank (Ngân hàng Thế Giới)(1) có những điểm tương đồng như: có tính địa phương, tính truyền thống, tính bản địa ở một khu vực cụ thể; là hoạt động văn hóa có bối cảnh cụ thể; tri thức không chính thức, được truyền miệng, không ghi lại dưới dạng tài liệu văn bản; có tính biến đổi và thích nghi, liên quan mật thiết với sự sống còn và tồn tại của nhiều cộng đồng người trên thế giới; có chính thể luận về bản chất.

Để giúp cho hướng nghiên cứu, giới hạn phạm vi và làm sáng rõ ý nghĩa của khái niệm để từ đó chọn ra yếu tố thích hợp có thể dùng cách so sánh từng cặp khái niệm như: tri thức dân gian – tri thức bác học (tri thức chuyên nghiệp); tri thức địa phương – tri thức phổ thông (tri thức mang tính chung); tri thức bản địa (tri thức người đến trước) – tri thức phương Tây (tri thức người đến sau hay tri thức hiện đại gắn với xã hội công nghiệp [41, tr.15]); tri thức truyền thống – tri thức hiện đại (kiến thức khoa học).

Người địa phương ở đây được hiểu rộng hơn là những người dân đang sinh sống và chịu sự tác động của MTTN, xã hội tại địa phương đó. Bởi do hình thức trao truyền là truyền khẩu nên hệ thống tri thức không được thống nhất, bài bản và chứng minh thực nghiệm như hệ thống tri thức khoa học hiện đại. Ngoài ra bởi do người sáng tạo và làm chủ hệ thống TTDG là người dân địa phương, ít được tiếp cận với các nguồn thông tin hiện đại nên thay đổi về bản chất không nhiều. Tôi xin được chọn cách gọi chung là “tri thức dân gian” để chỉ đối tượng nghiên cứu là “sự hiểu biết của người dân địa phương về nơi sinh sống” vì về ngữ nghĩa khái niệm đã khái quát được tổng thể của bản chất vấn đề nghiên cứu.

PGS.TS. Nguyễn Chí Bền đã nhận xét: “Nam bộ là vùng đất mới, với lịch sử hơn 300 năm trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc. Các tộc người đang sinh sống ở đây như Việt, Hoa, Chăm, Khơme v.v…, đều không phải là cư dân bản địa, nghĩa là tổ tiên họ từng ở một vùng đất khác” [15, tr.28]. Chính vì điều kiện lịch sử hình thành dân cư khác biệt đã tạo nên những điểm khác nhau về đặc trưng văn hóa giữa người Việt đồng bằng Bắc bộ và người Việt vùng đồng bằng Nam bộ. Sự khác biệt đó được hình từ 2 yếu tố cơ bản: tác động của cảnh quan môi trường sống mới, cộng đồng dân cư mới hình thành mang tính đa văn hóa. Là một bộ phận người Việt đồng bằng Nam bộ, người Việt vùng U Minh có những đặc tính chung và cũng có những đặc điểm riêng do chịu tác động của môi trường sinh thái nơi sinh sống. Kho tàng TTDG về MTTN của người Việt vùng U Minh thể hiện rất rõ nét qua việc ăn - ở - mặc - đi lại và khai thác TNTN. Tuy vậy, nếu xét về góc độ người chủ của nguồn tri thức thì có thể nhận thấy rất rõ người địa phương không phải là người bản địa vì vậy “tính bản địa” không hiện diện ở vùng đất mới này. Tuy vậy, việc tiếp nhận tri thức mới để biến đổi vốn tri thức cũ, đưa ra những phương thức sáng tạo mới cũng không mấy khó khăn đối với họ. Điều này khi áp dụng vào nghiên cứu thực tiễn đời sống văn hóa của cộng đồng Việt vùng U Minh phù hợp cả về mặt nguyên bản và quá trình biến đổi bởi lẽ họ không phải là dân “bản địa” mà là “lưu dân”. TTDG của người Việt nơi đây được kết hợp hài hòa giữa những gì thuộc về văn hóa truyền thống, tri thức của dân tộc cộng cư khác (Khmer, Hoa) và quan trọng nhất là “chuyển đổi” phương thức thực hiện để phù hợp với MTTN.

Sự hiểu biết được biến đổi và ứng dụng một cách linh hoạt để mang lại hiệu quả thực tế nhất phục vụ cho ĐSVC với bốn yếu tố ăn - mặc - ở - đi lại là những phần cơ bản nhất. Tất cả những hoạt động của con người trước tiên đều nhằm thỏa mãn nhu cầu ĐSVC tiếp theo mới đến thỏa mãn nhu cầu tinh thần. Những hoạt động này chính là thái độ ứng xử với MTTN, thể hiện mối quan hệ 2 chiều giữa chủ thể sáng tạo – con người và khách thể thụ động – thiên nhiên. Mối quan hệ này biểu hiện trình độ hiểu biết và khả năng khai thác thiên nhiên của con người. Con người đứng trên thế giới quan của chủ thể đủ khả năng hiểu biết về thiên nhiên mà đưa ra thái độ ứng xử với MTTN. Dù cho có khả năng đến đâu con người vẫn không thể tách mình ra khỏi MTTN và phải chịu sự tác động ngược chiều từ thiên nhiên do cách ứng xử của mình. Mối quan hệ này bao hàm tất cả giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra cả về vật chất và tinh thần. Từ những dẫn chứng trên và qua quá trình nghiên cứu tại thực địa, có thể tạm đưa ra kết luận: “Tri thức dân gian của người Việt vùng UM là tổng thể về sự hiểu biết của người dân sinh sống trên địa bàn (không mang tính bản địa) về tự nhiên, xã hội và bản thân mang tính trao truyền qua truyền khẩu. Sự hiểu biết này luôn vận động biến đổi theo quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội và được vận dụng phục vụ lại cho đời sống vật chất của người dân”.

Từ việc ứng xử với MTTN trong các hoạt động ĐSVC của cộng đồng sẽ giúp nhận thức, lý giải các hiện tượng văn hóa nền tảng hình thành hệ thống giá trị TTDG về việc ăn - mặc -- đi lại trong đó chứa đựng tri thức về khai thác TNTN để phục vụ cho những nhu cầu này. Quá trình khám phá, khai thác và sử dụng TNTN là quá trình sáng tạo, đúc kết kinh nghiệm tạo thành kho tàng tri thức chung và trao truyền cho thế hệ kế thừa của con người. Kho tàng TTDG của người Việt vùng U Minh cũng nằm trong qui luật chung này.

TẠM KẾT

Trong quá trình Nam tiến, hơn 300 năm khai hoang khẩn đất xây dựng vùng mới lưu dân người Việt đã vận dụng biến đổi vốn tri thức truyền thống của mình để có thể thích nghi và tồn tại trong môi trường sống đặc biệt của vùng đất rừng trầm thủy U Minh. Với bản tính linh hoạt, tư duy thực tế trong việc ứng phó với thiên nhiên, người Việt nơi đây đã kết hợp vốn tri thức của mình và tận dụng những tri thức “có lợi” của hai dân tộc cộng cư Khmer và Hoa để xây dựng thành kho tàng tri thức riêng. Hệ thống tri thức dân gian đó được hình thành trên bốn lĩnh vực cơ bản của ĐSVC của con người là ăn – mặc - ở - đi lại. Tài nguyên thiên nhiên của vùng U Minh đã bị khai thác đến mức cạn kiệt, song song đó là quá trình đô thị hóa đã làm biến đổi nhanh chóng đời sống văn hóa xã hội truyền thống nơi đây. Sự thay đổi này chính là nguyên nhân cơ bản làm cho kho tàng TTDG của người Việt vùng U Minh về ứng xử với MTTN đang dần mai một./.

PHỤ LỤC

Vài nét về tình hình nghiên cứu TTDG của vùng U Minh

Một số sử liệu, tài liệu, công trình nghiên cứu vùng U Minh đã thu thập được chủ yếu viết về lịch sử hình thành dân cư - dân tộc, địa lý, khí hậu thủy văn, tài nguyên động thực vật, nếp sống, tín ngưỡng... Trước năm 1945, một số học giả của triều Nguyễn và thời Pháp thuộc đã đề cập đến vùng đất Kiên Giang (trấn Hà Tiên xưa) như: Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn, Đại Nam thực lục chánh biên, Quốc triều chánh biên toát yếu của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Hà Tiên hiệp trấn - Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh, Hà Tiên 1900 của Viện Viễn Đông Bác Cổ, Những ngày đầu ở Nam kỳ của Béneir P.Vi-an… Đặc biệt sách Đại Nam nhất thống chí có riêng một phần về trấn Hà Tiên. Đây là những sử liệu rất có giá trị nhưng thông tin chỉ khái lược về đất nước, con người và văn hóa của vùng U Minh.

Từ năm 1945 – 1975, có một số sách nghiên cứu viết về vùng đất Nam bộ trong đó có phần viết về Hà Tiên xưa như: Vịnh Thái Lan của Sơn Hồng Đức, Người Việt gốc Miên, Sử liệu Phù Nam của Lê Hương, một số tài liệu về hành chính bằng tiếng Pháp bản dịch của Thư Viện tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên địa phương chí (1974) của Trần Thiêm Trung, Văn học Hà Tiên của Đông Hồ và Hà Tiên địa phương chí năm 1965, 1967, 1968, 1972... có phần nói về Kiên Giang và vùng U Minh. Nội dung của những sách và tài liệu này cũng chỉ khái quát chung về đặc điểm địa lý, dân cư, dân tộc hoặc một mảng về văn hóa, văn học... của cộng đồng dân cư tỉnh Hà Tiên, Rạch Giá trong đó vùng U Minh được nhắc đến nhưng chỉ ở mức độ khái quát.

Từ năm 1975 đến nay, một số tài liệu có phần nói về vùng Tây Nam bộ như Văn hóa dân gian Nam bộ, những phát thảo của Nguyễn Phương Thảo, Nam bộ xưa và nay của nhiều tác giả, Mục Hà Tiên - Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu, Tìm hiểu Kiên Giang của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Kiên Giang, U Minh dấu ấn và cảm thức, Rừng U Minh kỳ vĩ của Phan Thanh Nhàn, Hồi ký Sơn Nam của Sơn Nam, Động vật hoang dã U Minh của Anh Động, Ứng xử văn hóa trong khai thác MTTN ở Cà Mau luận văn cao học của Vưu Nghị Lực, Ẩm thực người Việt vùng U Minh luận văn cao học của Nguyễn Diệp Mai... Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu, bài viết của một số tác giả người Kiên Giang về VHDG của Kiên Giang và vùng U Minh nhưng cũng chỉ khiêm tốn ở một vài khía cạnh đơn lẻ về ẩm thực, ở, mặc, khai thác tài nguyên, tín ngưỡng...

Ở một số công trình nghiên cứu về môi trường sinh thái dạng tổng hợp cung cấp thông tin giúp nhận diện được một số đặc điểm về địa lý, môi trường tự nhiên (MTTN) bước đầu giúp hình dung được diện mạo về vùng đất U Minh. Những số liệu thống kê so sánh cho thấy địa giới ban đầu được ghi nhận của rừng U Minh thay đổi nhanh chóng, cùng với sự khai hoang với tốc độ nhanh trong gần 1 thế kỷ đã làm thay đổi nhanh chóng cuộc sống của cộng đồng dân cư nơi đây. Từ những thay đổi MTTN đã hình thành và làm thay đổi cách thức sinh hoạt, tư duy và mô hình cộng đồng dân cư trên vùng đất U Minh. Những thông tin này sẽ giúp giải thích tương đối chính xác về những dạng địa hình tự nhiên đặc thù của vùng U Minh, giúp ích trong việc tìm hiểu về cách thức, phương tiện sinh hoạt của người dân địa phương.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Kiên Giang (1986), Tìm hiểu Kiên Giang.

2. CARE (Đan Mạch -1998), Dự án phát triển cộng đồng và bảo tồn khu bảo tồn U Minh Thượng, Kiên Giang.

3. Nguyễn Đình Đầu (1999), Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp Nam kỳ lục tỉnh, Nxb Trẻ, in lần 2.

4. Lê Quí Đôn (1997), Phủ Biên tạp lục, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học Xã hội.

5. Sơn Hồng Đức (1973), Vịnh Thái Lan, Nxb Trăm Hoa miol, Miền Tây, Sài Gòn.

6. Trịnh Hoài Đức (1972), Gia Định thành thông chí, Nha Văn hóa Sài Gòn, tập hạ.

7. Trần Hồng Hạnh, Tri thức địa phương – sự tiếp cận lý thuyết, tạp chí Dân tộc học số 1 – 2005

8. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam bộ, Nxb Trẻ.

9. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Đồng Nai (1997), Giữ gìn và phát huy tài sản văn hóa các dân tộc ở Đông Nam bộ, Nxb Khoa học Xã hội, 1997, tr.28

10. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (2001), Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa Thông tin

11. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam – Trường Đại học Cần Thơ (2004), Tìm hiểu đặc trưng di sản VHDG Nam bộ, Nxb Khoa học Xã hội

12. Lê Hương (1974), Sử liệu Phù Nam, Nxb Nguyên Nhiêu, Sài Gòn.

13. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Tp.HCM.

14. Vưu Nghị Lực (1997), Ứng xử văn hóa trong khai thác môi trường thiên nhiên ở Cà Mau, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, luận văn thạc sĩ 1997

15. Nguyễn Diệp Mai, Ẩm thực người Việt vùng U Minh, Viện Nghiên cứu VHDG, luận án cao học 2005

16. Sơn Nam (1993), Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa, Nxb Tp.HCM.

17. Sơn Nam, Hương rừng Cà Mau, Nxb Trí Đăng, Sài gòn

18. Sơn Nam (1992), Văn minh miệt vườn, Nxb Văn Hóa.

19. Sơn Nam (1994), Lịch sử khai khẩn đất hoang miền Nam, Nxb Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh.

20. Phan Thanh Nhàn (1994), Rừng U Minh kỳ vĩ, Nxb Mũi Cà Mau.

21. Phan Thanh Nhàn, U Minh dấu ấn và cảm thức, Hội Văn nghệ Kiên Giang 1993.

22. Nhiều tác giả (2000), Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tái bản lần thứ 3.

23. Nhiều tác giả (2005), Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

24. Paulin Vial (1874), Những năm đầu Nam Kỳ thuộc Pháp (Les premières anneés de la Cochinchine colnie Francaise), tập I, II, III, Challamel, Paris, bản tiếng bản dịch tiếng Việt tại Kho lưu trữ Thư viện tỉnh Kiên Giang.

25. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Ngô Đức Thịnh (1986), “Truyền thống ăn uống Việt Nam với dưỡng sinh và trị bệnh”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (7).

28. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

29. Ngô Đức Thịnh (2002), “Tri thức bản địa và văn hóa dân tộc”, Hội thảo Sử dụng kiến thức bản địa trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên vùng cao tại Hà Nội, (6).

30. Ngô Đức Thịnh (2004), “Thế giới quan bản địa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (5).

31. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh.

32. Ngô Đức Thịnh (2007), Bàn thêm về “tri thức địa phương”, tập tài liệu Chuyên san Nhân học đương đại, Hội Dân tộc học Việt Nam, (4).

33. Ngô Đức Thịnh (1997) – Local Knowledge and Development. “Integration of Endgenous Cultural Dimention into Development”, Vol.N2, New Delhi

34. Ngô Đức Thịnh – Frank Proschan chủ biên (2005), Kolklore một số thuật ngữ đương đại, Đoàn Đức Lưu – Lê Thị Thanh Hương – Hoàng Thị Anh Thư biên dịch, Viện Nghiên cứu Văn hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

35. Ngô Đức Thịnh – Frank Proschan chủ biên (2005), Folklore thế giới và một số công trình nghiên cứu cơ bản, Phạm Lan Hương - Đỗ Trọng Quang – Vũ Thị Thanh Hương – Đoàn Đức Lưu - Hồ Hải Thuỵ - Lê Thị Lệ Thanh – Hoàng Thị Anh Thư - Ngạc Quỳnh Mai - Đỗ Gia Huy biên dịch, Viện Nghiên cứu văn hóa - Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Nguyễn Văn Thức (2000), Mấy vấn đề về bản sắc văn hoá dân tộc, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

37. Trần Thiêm Trung (1974), Hà Tiên địa phương chí, Nha Văn hoá, Sài Gòn.

38. Quốc sử quán triều Nguyễn (1972) - Quốc triều chánh biên toát yếu, Nxb Khoa học Xã hội.

39. Quốc sử giám triều Nguyễn (1969), Đại Nam thực lục chính biên, Nxb Khoa học Xã hội.

40. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang (2000), Tài liệu điều tra nguồn tài nguyên vùng rừng U Minh Thượng năm 2000, Bản đánh máy.

41. Sở Thủy sản Kiên Giang (2000), Thủy sản Kiên Giang, in tại Xí nghiệp in Hồ Văn Tẩu.

42. Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao Kiên Giang (1997), Kỷ yếu hội thảo Di tích lịch sử căn cứ địa Cách mạng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang.

43. Tòa hành chánh Kiên Giang (1970) - Địa phương chí - 1970.

44. Hoàng Xuân Tý (1998), Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

45. Viện Nghiên cứu văn hóa (2003, 2004, 2005, 2006, 2007), Thông báo văn hóa dân gian 2004, Thông báo văn hóa dân gian 2005, Thông báo văn hóa dân gian 2006, Thông báo văn hóa dân gian 2007, Thông báo văn hóa dân gian 2008, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

46. Viện Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh (1982), Một số vấn đề về đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Viện Văn hoá Dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

48. Viện Viễn Đông Bác Cổ, Hà Tiên 1900, bản in thạch lưu trữ tại Thư Viện tỉnh Kiên Giang.

49. Viện Viễn Đông Bác cổ (1929), Địa phương chí Hà Tiên, bản in thạch lưu trữ tại Thư Viện tỉnh Kiên Giang.

50. Trần Quốc Vượng chủ biên (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam, cái nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.

II. Tài liệu tiếng nước ngoài

1. Agrawal,A (1995a), Dismantling the divide between indigenous and scientific knowledge. Development and Change 26: 413-39 (Xoá bỏ sự phân cách giữa tri thức bản địa và tri thức khoa học. Phát triển và Chuyển đổi) – (1995b), Indigenous and scientific knowledge: Soan critical comment. Indigenous Knowledge and Development Monitor 3 (3):3-6 (Tri thức bản địa và trí thức khoa học: Một số bình luận phê phán. Tri thức bản địa và Giám sát phát triển).

2. Atte,O (1992), Indigenous local knowledge as a key to local level development: Possibilities, contraints, and planning issues. Ames: Iowa State Unversity (Tri thức địa phương bản địa là chìa khoá cho sự phát triển ở cấp địa phương: những triển vọng, hạn chế và vấn đề lập kế hoạch).

3. J. Bouault (1927), Géographie de L’Indochine Tonkin – Annam – Cochinchine – Combodge & Laos, Imprimerie d’extrème – orient – Ha Noi – Hai Phong Éditeur.

4. Stephen B.Brush and Doreen Stabinsky (1996), Valuing Knowledge, Indigenous People and Intellectual Property Rights, Island Press.

5. Crichley, W., C.Reij, and T.J. Willcocks (1994), Indigenous soiland water conservation: A review of the state of knowledge and prospects for building on tradition. Land Degradation and rehabitilation 5:293-314 (Bảo tồn đất và nước bản địa: Đánh giá thực trạng của tri thức và những triển vọng để đặt niềm tin vào truyền thống: Suy thoái và phục hồi đất).

6. Ellen,R.F and H.Harris (1997), Indigenous enviromental knowledge in scientific and development literature: A critical assessment. Canterbury: University of Kent at Canterbury (Tri thức môi trường bản địa trong tài liệu khoa học và phát triển: Đánh giá phê phán).

7. Howes.M (1980), “The use of indigenous technical knowledge in development” in Indigenous knowledge systems and development. Edited by D.Brokensha, D.M.Warren and O.Werner, pp.323-34. Lanham: University Press of American (“Sử dụng kỹ thuật bản địa trong phát triển” trong Các hệ thống tri thức bản địa và phát triển).

8. Metrick,H (1993), Mobilizing indiginous knowledge: Development-oriented research in agriculture. The Hague: ICRA (Phát huy tri thức bản địa: Nghiên cứu theo định hướng phát triển trong nông nghiệp).

9. Ngô Đức Thịnh (1997), Local Knowledge and Development. “Integation ò Endgenous Cultural Dimention into Development”, Vol.N2, New Delhi.

10. Warren, D.Michael and K.Casman (1988), Indigenous knowledge for sustainable agriculture ang rural development. Sustainable Agriculture Programme, International Institute for Evironment and Development, Gatekeeper Series SA 10 (Tri thức bản địa phục vụ phát triển nông thôn và nông nghiệp bền vững).

11. www.worldbank.org/afr/ik/index.htm

12. www.vcn.bc.ca/citizens-handbook/unesco/most/bpindi.html#definition

13. http://blog.timnhanh.com/tourism063u/comment/ao-dai-va-cac-trang-phuc-truyen-thong-viet-nam.35AFC968.html

14. http://blog.timnhanh.com/tourism063u/comment/ao-dai-va-cac-trang-phuc-truyen-thong-viet-nam.35AFC968.html

15. http://www.dunglac.org/upload/article/f__1183129482.htm, Nước, văn hoá và hội nhập, Trần Ngọc Thêm.

1 – Xin xem thông tin ở phần phụ lục

1 – Chủ yếu là người Trung Hoa đến từ Phước Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Triều Châu.

2 - Tên gọi chung cho những người thuộc chủng tộc Mã Lai Đa Đảo theo cách gọi của người dân địa phương.

1 - Website của World Bank, xem www.worldbank.org/afr/ik/index.htm