Sunday, October 26, 2025

Bàn về trí tưởng tượng

Immanuel Kant

Hình dung (facultas imaginandi) chính là nhìn thấy mà không cần có sự vật ở đó. Có thể là hiện hình tức thời (exhibitio originaria), đi trước kinh nghiệm, hoặc phái sinh (exhibitio derivativa), tái hiện những gì từng được chứng kiến. Nhận biết thuần túy về không gian và thời gian thuộc nhóm đầu, còn lại đều được nhận diện qua hiện thực, mà nếu gắn với khái niệm để thành nhận biết thực nghiệm, thì được gọi là kinh nghiệm. Khi trí tưởng tượng tự thân hiển thị sẽ là mơ tưởng, và người sống trong mơ chính là người coi những gì tưởng tượng là trải nghiệm (nội tại hoặc ngoại lai). Mơ là (tình trạng sức khỏe) ở trong cuộc chơi của trí tưởng tượng.

Nói cách khác, hình dung là tự sinh hoặc phái sinh. Mà tự sinh thì cũng không có nghĩa là tự tạo ra, tức là hình dung không phải là tự tạo ra được biểu đạt của giác quan cái mà giác quan chưa bao giờ được cảm nhận, mà luôn chỉ ra được chất liệu tạo ra biểu đạt đó. Ai đó chưa bao giờ trông thấy màu đỏ trong bảng màu sẽ không thể diễn tả nổi. Người mù từ khi mới đẻ sẽ không bao giờ kể ra được bất kỳ màu sắc nào, bao gồm cả loại màu tạo ra từ pha trộn hai màu khác như xanh lá cây. Vàng và xanh dương khi trộn lẫn sẽ tạo ra xanh lá cây. Hình dung không thể nào tạo ra được bất kỳ biểu diễn nào cho sắc màu đó, nếu chúng ta trước đây chưa từng nhìn thấy sự pha trộn đó.

Tất cả 5 giác quan đều tương tự như vậy. Sự sắp đặt biểu đạt từ chúng không thể nào tưởng tượng ra, mà đầu tiên phải vay mượn từ khả năng cảm nhận của giác quan. Có những người mà khả năng nhìn không vượt quá phạm vi đen và trắng. Họ có nhìn giỏi ra sao đi nữa thì thế giới vẫn chỉ giống như một bức tranh in khắc mà thôi. Tương tự vậy, có khá nhiều người hơn ta tưởng, tai nghe tốt hay có thể nói là siêu việt, nhưng lại không phải kiểu âm nhạc, cho nên thính giác không nhận biết được tông nhạc cao thấp đến mức không chỉ không hát theo được mà còn không phân biệt nổi với âm thanh bình thường.

Biểu đạt mùi và vị cũng tương tự: có những người mà giác quan bị khiếm khuyết, lại cho rằng hiểu được biểu đạt của người kia, nhưng thực ra hai diễn tả đó không chỉ chênh nhau đôi chút mà hoàn toàn khác biệt về loại hình. Có người hoàn toàn không thể ngửi được, cho khi cảm nhận không khí sạch để nhận biết mùi thì bất kể có biểu đạt như thế nào đi nữa cũng sẽ không hiểu nổi. Nếu đã thiếu khứu giác thì cũng không ghi nhận được vị, và như vậy có dạy thế nào đi nữa cũng vô ích. Với người này chuyện đói và ăn cho no bụng hoàn toàn khác với khẩu vị.

Bất kể trí tưởng tượng có bay bổng như nghệ sĩ hay huyền ảo ma mị đến đâu đi nữa thì cũng không có khả năng sáng tạo, mà vẫn cần đến chất liệu mà giác quan cung cấp. Theo đó thì biểu đạt của giác quan không dễ chuyển tải như khái niệm trong tri thức. Người ta vẫn thường (lầm lẫn) gọi khả năng chuyển tải biểu đạt giác quan là cảm nhận và nói rằng: người này không có cảm nhận, trong khi việc nắm bắt những biểu đạt đã được truyền tải và hợp nhất với suy nghĩ phần nào thuộc về tri thức chứ không phải khả năng nhận biết bằng giác quan. Người đó khi nói không hề suy nghĩ, cho nên người nghe không hiểu vì anh ta nói điều vô nghĩa (nonsense), không nên nhầm lẫn với người phát biểu mà ý nghĩa rối rắm trộn lẫn với nhau khiến người nghe không hiểu phải xử trí thế nào. Tại sao chữ Sinn (chỉ ở dạng số ít) thường được dùng như là tư duy hay có thể nói là mức cao hơn cả suy nghĩ. giống như là điều thông thái (như trong chữ Sinnspruch - châm ngôn). Hay như tư duy lành mạnh của con người gọi là ý niệm chung (common sense), dù rằng biểu đạt đó chỉ là ở mức thấp nhưng được đặt cao hơn? Cho nên có thể thấy rằng trí tưởng tượng, là nguồn cung chất liệu tri thức, nhằm bảo đảm cùng nội dung nhận thức cho khái niệm, nhờ vào sự tương đồng về hình dạng (được tái tạo) với thực tại mà bảo đảm tính thực tế cho khái niệm.


Chú giải (TS Lê Thanh Hải)

Tôi đã rất nhiều lần cố gắng dịch một văn bản triết học nào đó bằng tiếng Việt, nhung cuối cùng đều nản chí bỏ cuộc. Lý do luôn là do tiếng Việt thiếu hệ thống khái niệm cần thiết để truyền dẫn luồng tư tưởng mới đó. Lần này nhờ vừa gặp thuận lợi từ những sự kiện học thuật bên ngoài và quyết tâm nội tại muốn đạt bước tiến rõ ràng về tri thức, mà đã hoàn thành xong bản dịch vô cùng nhỏ này. Đây chỉ là mục số 28 dài vỏn vẹn 3 trang sách trong quyển Nhân học (Anthropologie in pragmatischer Hinsicht) của Kant.

Rào cản lớn nhất khi dịch triết học chính là những khái niệm cơ bản, mà trong bài viết này của Kant chính là cái đang được bàn tới: "tưởng tượng". Bài dịch sử dụng nhiều chữ tương thích nhưng có phạm vi nghĩa hơi khác để diễn giải đúng ý của tác giả, nhưng như vậy lại nảy sinh vấn đề là lạc mất cái chữ "tưởng tượng" mà Kant muốn phân tích, thay bằng hình dung hay nhận biết. Mà bản thân người dịch có lúc cũng phân vân liệu mình có hiểu đúng ý tác giả hay không, dù đã dịch đối chiếu từ một bản dịch tiếng Ba Lan và một bản dịch tiếng Anh, nhưng chưa phải trực tiếp từ bản tiếng Đức.

Để nắm bắt được phân tích của Kant về trí tưởng tượng, chúng ta hãy bắt đầu bằng một khái niệm tiếng Latin mà Kant dùng để mô tả khả năng này, gọi là imaginandi, gốc gác liên quan tới hình ảnh, có thể hiểu là hiện hình, hình dung, hiển thị, nhận diện v.v. và hay sử dung nhất là "tưởng tượng" - imagination. Trước hết, Kant phân chia khả năng này thành hai loại. Với thời gian và không gian thì trí não ta nhận biết (tưởng tượng, mường tượng) tức thời, tự sinh, có trước kinh nghiệm. Còn tất cả các loại hình khác đều mang tính phái sinh (derivativa), tức là tự hồi tưởng lại, nhờ trải nghiệm và liên kết với khái niệm về sự vật mà có.

Với Kant, chữ "tưởng tượng" chỉ dừng lại ở đó, là những hình dung gắn liền với chất liệu cụ thể, chứ còn nếu tự chế tạo ra thì đã vượt sang mức mơ tưởng, mà người sống trong mơ là thể trạng ở bên trong cuộc chơi của trí tưởng tượng.

Để làm rõ hơn nữa tính thực tế của hoạt động "tưởng tượng", Kant gắn khái niệm này với từng ngũ quan của con người: thị giác (mắt nhìn), thính giác (tai nghe), khứu giác (mũi ngửi), vị giác (lưõi nếm), và xúc giác (tay sờ hay chính xác hơn là toàn bộ da trên cơ thể). Dù rằng "tưởng tượng" tự sinh (originaria) có trước trải nghiệm nhưng tự thân không thể nào bỏ qua giác quan mà tự tạo ra sự biểu diễn hình thể không tưởng. Người mù bẩm sinh sẽ không thể nào mô tả được màu đỏ, lại càng không thể nào mô tả được thứ màu được tạo ra từ việc trộn lẫn như vàng và xanh dương lại thành xanh lá cây, khi không được chứng kiến quá trình pha trộn đó.

Cần nhớ rằng sự tưởng tượng này có bay bổng đến đâu đi nữa vẫn gắn liền với chất liệu mà giác quan cung cấp. Mà biểu đạt của giác quan thì không phổ cập như khái niệm của tri thức. Kant nhắc nhở như vậy do đặc thù trong tiếng Đức chữ Sinn (số ít) vừa có nghĩa là (một) giác quan mà cũng vừa có nghĩa là "ý nghĩa". Sự thông thái được gói gọn vào trong một từ ghép Sinnspruch (giác quan "nói"), trong khi nhận biết của giác quan nằm ở tầng thấp hơn tư duy suy nghĩ. Ý niệm chung (common sense) cũng như vậy. Điều quan trọng là mối quan hệ giữa "tưởng tượng" (tức là phép hình dung của giác quan) và tri thức (nhận thức) là cần thiết để bảo đảm cho nhận thức được thực tế.

Mục số 28 này có thể coi như là chìa khóa để bước vào thế giới của loạt bài giảng mà Kant đã giảng trong suốt 10 năm liền ở đại học Koenigsberg (mỗi tuần hai buổi thứ Tư và thứ Bảy, 8:00-10:00, trung bình mỗi năm có 50 sinh viên đăng ký), sau ngày nghỉ hưu biên soạn lại thành quyển sách cuối cùng xuất bản trước khi mất (1798-1800). Mục 28 mở đầu cho phần bàn về trí tưởng tượng (28-37), nối tiếp phần bàn về các giác quan (15-27) và sau đó chuyển sang ký tự (38-39) và nhận thức (40-59). Với bản dịch tiếng Anh có sẵn miễn phí trên mạng, bạn có thể đọc mà thử đi theo con đường nghiên cứu nhân học theo cách của Kant, tìm hiểu khả năng nhận thức (Venunft) của con người qua hành động (pragmatischer). Bản thân Foucault phần nào do đọc, dịch, và diễn giải cuốn sách này của Kant ở mức luận văn phụ khi bảo vệ tiến sĩ, mà xây dựng nên phương pháp khảo cổ học tri thức.