Hiểu biết thông thường và Kiến thức khoa học xã hội
Alfred Schutz 1966, Lê Hải dịch[1]
Theo Alfred North Whitehead, khoa học[2] luôn có hai mục tiêu: Thứ nhất là sản xuất ra một lý thuyết phù hợp với thực nghiệm, và thứ hai là sự giải thích của các khái niệm sử dụng trong hiểu biết thông thường về tự nhiên, ít nhất là về mặt khái quát; giải thích này được thành lập bằng cách giữ lại các khái niệm đó trong lý thuyết khoa học của tư duy phù hợp. Vì lý do này khoa học vật lý (là khoa học duy nhất theo cách hiểu của Whitehead) đã chế tạo các thiết bị mà qua đó các vật thể mang tính tư duy (thought objects) trong nhận thức đời thường được thay thế bằng các vật thể mang tính tư duy của khoa học. Các vật thể này, như là phân tử, hạt nhân, và điện tử đều có cùng tính chất là khả năng thể hiện ý nghĩa trực tiếp trong nhận thức của ta và được ta biết đến chỉ nhờ một chuỗi các sự kiện mà chúng có tham gia. Nói một cách chắc chắn hơn là các sự kiện được thể hiện trong nhận thức của ta bằng các thể hiện ý nghĩa. Thông qua thiết bị này một cầu nối được tạo ra giữa sự mơ hồ dao động của ý nghĩa và sự định nghĩa chính xác của tư duy.
Mối quan tâm ở đây không phải là theo từng bước phương pháp thông minh mà Whitehead đã dùng như vừa tóm tắt để phân tích các tổ chức của tư duy, bắt đầu từ “giải phẫu học các tư tưởng khoa học” và kết thúc bằng các lý thuyết được toán hóa cho vật lý hiện đại và các nguyên tắc vận hành cho logic hình thức. Chúng ta quan tâm nhiều đến quan niệm cơ bản mà Whitehead cùng chia sẻ với các nhà tư tưởng lớn khác trong thời của chúng ta như William James, Dewey, Bergson và Husserl. Quan điểm này có thể trình bày một cách rất khái quát như sau:
Tất cả kiến thức của chúng ta về thế giới, theo hiểu biết thông thường cũng như theo kiến thức khoa học, đều là các kết cấu, ví dụ như là một tổ hợp các khái niệm trừu tượng, hệ thống phổ quát, hình thức hóa, tuyệt đối hoá phù hợp riêng với một mức độ tổ chức tư duy nhất định. Nói cụ thể hơn, không có gì gọi là thực tế, thuần chất và đơn giản. Tất cả dữ kiện đều từ một hệ thống dự kiện được chọn trong một bối cảnh phổ quát nhờ các hoạt động của trí não. Vì vậy tất cả đó đều là dữ kiện đã được diễn giải, là dữ kiện được xét tách rời khỏi môi trường bằng tư duy trừu tượng nhân tạo hoặc dữ kiện được xét trong một hoàn cảnh đặc biệt. Bất kể là trường hợp nào thì các dữ kiện đó đều hàm chứa giá trị diễn giải bên trong hoặc bên ngoài. Điều này không có nghĩa là chúng ta không thể nắm bắt thực tại thế giới trong cuộc sống hàng ngày hay trong khoa học. Điều đó chỉ có nghĩa là chúng ta chỉ nắm bắt một số góc cạnh mà thôi, chính xác là những gì chúng ta cần tới trong toan tính cuộc sống hàng ngày, hay từ góc nhìn của một qui trình với những nguyên tắc đã được công nhận trong tư duy được gọi là phương pháp khoa học.
Theo cách nhìn đó, tất cả các cấu trúc khoa học được thiết kế để thay thế các cấu trúc trong tư duy đời thường, thì khác biệt về nguyên tắc giữa các ngành khoa học tự nhiên và xã hội sẽ hiện rõ. Các nhà khoa học tự nhiên có quyền quyết định chọn[3] khu vực nào của thế giới tự nhiên, cũng như các dữ liệu và sự kiện nào trong đó, và các góc cạnh sử dụng để tập trung và diễn giải phù hợp với yêu cầu riêng của họ.Các dữ kiện và sự kiện đó không được chọn lựa trước và cũng không bị diễn giải trước; chúng không thể hiện các kết cấu lệ thuộc phù hợp. Phù hợp không phải là thuộc tính trong tự nhiên khi là kết quả của quá trình lựa chọn và diễn giải của con người trong tự nhiên hay trong lúc quan sát tự nhiên. Các dữ kiện, dữ liệu và sự kiện mà nhà khoa học tự nhiên xử lý chỉ là các dữ kiện, dữ liệu và sự kiện trong lĩnh vực mà anh ta quan sát, nhưng lĩnh vực này không có “nghĩa” gì với phân tử, nguyên tử hay là điện tử trong đó.
Nhưng các dữ kiện, sự kiện và dữ liệu trước mắt nhà khoa học xã hội lại là một kết cấu hoàn toàn khác. Khu vực quan sát của anh ta, tức là thế giới xã hội, về bản chất không phải là không có kết cấu. Khu vực đó có ý nghĩa riêng và kết cấu phù hợp với con người sống, suy nghĩ và hoạt động bên trong đó. Họ[4] đã chọn trước và diễn giải trước thế giới này bằng một chuỗi các kết cấu thông thường về thực tại của cuộc sống hàng ngày, và các vật thể mang tính tư duy đó sẽ quyết định hành vi của họ, định ra mục tiêu cho hành động của họ, các phương tiện có thể sử dụng để đạt mục tiêu – nói một cách đơn giản, là những điều giúp họ tìm ra các ứng xử phù hợp trong môi trường tự nhiên và văn hóa xã hội và nắm bắt được. Các vật thể mang tính tư duy do các nhà khoa học xã hội tạo ra chỉ đến và được lập ra qua các vật thể mang tính tư duy tao ra từ kiến thức đời thường của người sống trong cuộc sống hàng ngày cùng với những thành viên khác. Cho nên, các cấu trúc được nhà khoa học xã hội sử dụng, nói theo một cách nào đó, là cấu trúc thứ cấp, tức là cấu trúc của cấu trúc đã do các nhân vật trên sàn diễn xã hội tạo ra, những người mà nhà khoa học quan sát hành vi và tìm cách giải thích theo các nguyên tắc vận hành trong khoa học của anh ta.
Các ngành khoa học xã hội hiện đại bị đặt trong hoàn cảnh phải đối mặt với tình huống tiến thoái lưỡng nan nghiêm trọng. Một trường phái tư duy cảm thấy có tồn tại một khác biệt cơ bản trong cấu trúc giữa thế giới xã hội và thế giới tự nhiên. Tuy nhiên cách nhìn này lại kéo theo kết luận sai lầm là các ngành khoa học xã hội hoàn toàn khác với các ngành khoa học tự nhiên, một cách nhìn không xét đến dữ kiện là một số nguyên tắc nghiên cứu nhất định liên quan đến tổ chức tư duy chuẩn xác được áp dụng với tất cả các ngành khoa học thực nghiệm. Một trường phái tư duy khác thì tìm cách nhìn vào hành vi của con người cũng giống như cách mà nhà khoa học tự nhiên nhìn vào “hành vi” của các vật thể mang tính tư duy của anh ta, coi như đương nhiên là các phương pháp của khoa học tự nhiên (trên tất cả là vật lý toán học) vốn đạt được các kết quả lớn lao, là các phương pháp khoa học duy nhất. Một cách khác, cách nhìn này coi như hiển nhiên là việc chấp nhận các phương pháp của khoa học tự nhiên trong việc lập ra kết cấu sẽ tạo ra kiến thức đáng tin cậy về thực tại xã hội. Nhưng hai điều được coi là mặc định đó không tương thích với nhau. Ví dụ như một hệ thống[5] hành vi được điều chỉnh tuyệt đối và phát triển đầy đủ sẽ đi xa khỏi các cấu trúc mà người ta dùng trong thực tế trải nghiệm hàng ngày về chính hành vi của bản thân và các thành viên khác.
[1] Trích dịch từ Alfred Schutz 1966, Common-sense and Scientific Interpretation, in Maurice Natanson (& Herman Leo van Breda) ed. 1990 Collected papers: The problem of social reality, Springer. Toàn bộ chú thích trong bản gốc - chủ yếu là dẫn nguồn sách - được lược bỏ. Người dịch thêm chú thích của bản thân và một số nội dung lấy từ một tác phẩm khác của Schutz là bài giảng vào năm 1940, được tạp chí Social Research vol 27 nr 2 in phần cuối vào năm 1960 (trang 203-221, in lại trong tập hai của bộ Collected papers: Studies in Social Theory, Auid Brodersen ed. [1964] 1976, Springer p.3-19)
[2] Đầu thế kỷ 20 các nhà lý thuyết trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn bàn luận nhiều về việc ngành này có được coi là khoa học hay không, đặc biệt là sau công trình của Thomas Kuhn bàn về paradigm và một số lập luận bác bỏ hoàn toàn “tính khoa học” của ngành. Một trong số các giải pháp như Alfred Schutz thực hiện trong bài viết này là áp dụng các phương pháp nghiên cứu và tư duy khoa học của ngành được coi là khoa học nhất là vật lý hiện đại (ảnh hưởng toán học) vào xã hội học. Schutz (1940:3) tuyên bố “các ngành khoa học xã hội phải theo qui củ của các ngành khoa học tự nhiên và thu nhận các phương pháp của các ngành đó”, nhưng cũng không chấp nhận cách ứng dụng quá cực đoan của trường phái behaviorism. Vấn đề sâu xa hơn là sự phân chia giữa tính khách quan và chủ quan của thực tại, mà nhà nghiên cứu xã hội có thể quyết định không chạm đến phần chủ quan, mà chỉ thu nhận dữ liệu để xử lý ở khu vực khách quan ví dụ như lý thuyết kinh tế về đường cung cầu, xác định qui luật trên mối quan hệ khách quan giữa hai giá trị này mà không đi sâu vào nhu cầu chủ quan hay giá trị chủ quan. “Chúng ta hãy ghi nhận các dữ liệu của thế giới xã hội này trong khuôn khổ kinh nghiệm khoa học của chúng ta có thể thể hiện chúng trong các mô hình đáng tin cậy, hãy mô tả và phân tích các dữ liệu đó, hãy xếp nhóm chúng theo các hệ thống chặt chẽ rồi nghiên cứu qui luật trên hình dáng và phát triển mà chúng tạo ra, và chúng ta sẽ đạt đến một hệ thống cho khoa học xã hội, phát hiện các nguyên tắc cơ bản và qui luật giải tích của thế giới xã hội” (Schutz 1940:6).
[3] Vì vậy mà Schutz (1940:8) cho rằng “tiên đề cơ bản cho phương pháp trong khoa học xã hội phải như sau: chọn một hệ qui chiếu thích hợp với vấn đề đang quan tâm nghiên cứu, cân nhắc giới hạn và khả năng, tương thích hóa và thống nhất hóa hệ thống khái niệm với các hệ thống khác, và khi đã chọn xong thì cần phải gắn với nó đến cùng!”. Trong trường hợp quá trình nghiên cứu làm phát lộ ra các hiện tượng khiến phải thay đổi thì toàn bộ hệ thống khái niệm cần phải được chuyển đổi hoàn toàn. Trích dẫn lý thuyết gia gốc Ba Lan từ trường phái Chicago Florian Znaniecki, Schutz (1940:7) ghi nhận rằng các hiện tượng xã hội có thể được nghiên cứu trong một trong bốn lĩnh vực là cá tính cá nhân mang tính xã hội (social personality), hoạt động xã hội (social act), nhóm xã hội bao gồm cả các cơ quan đại diện (social group, social institutions) và quan hệ xã hội (social relations).
[4] Cách nhìn xã hội của Schutz (1940:13) hoàn toàn lấy từ góc nhìn cá nhân luận (methodological individualism) của Max Weber (social action), tức là “các vấn đề xã hội chỉ có thể hiểu được nếu giản lược xuống hoạt động của con người và các hoạt động của con người chỉ có thể hiểu được bằng cách chỉ ra động cơ mang tính nhân quả (because motives) hay mục tiêu (in-order-to)”.
[5] Mối quan tâm hàng đầu của Schutz (1940:13) là “các động cơ đặc trưng (typical motives) của các nhân vật/vai diễn xã hội đặc trưng (typical actors) mang tính giải thích một hành động thể hiện ra ngoài là đặc trưng (typical act) trong một tình huống đặc trưng (typical situation)”.