Cách viết fieldnote
Mỹ Phương 7/2014
Thoạt nhìn, có vẻ như viết fieldnote khá đơn giản – này nhé, đến địa
điểm nghiên cứu, xem xét những
gì xảy ra, rồi sau đó ngồi
viết chúng viết xuống, thế là xong. Nhưng mô tả đơn giản này đặt
ra một câu hỏi cơ bản: khi viết
fieldnote, chính xác là người nghiên cứu chọn
những gì để viết
vậy, và nên viết như thế nào? Bởi vì quyết định
tại thời điểm ban đầu của quá trình
nghiên cứu có thể có tác động sâu sắc đến báo cáo cuối cùng, bài
viết này hy vọng có thể thắp lên ánh sáng le lói nào đó cho những
ai sắp sửa phải viết fieldnote khi đi trên con đường đi điền dã (fieldwork)
đầy thú vị mà cũng cực kỳ cô đơn này.
Này nhé, bạn cứ thử tưởng tượng công việc mà bạn sẽ làm miết
trong vòng vài tuần, vài tháng hay cả vài năm - lên
kế hoạch 2-3 giờ mỗi ngày để quan sát có tham gia (participant
observation – có nghĩa là bạn cố gắng trải nghiệm cuộc sống của đối
tượng mà bạn nghiên cứu đến mức độ có thể; điều này không có nghĩa là
bạn cố gắng tan chảy (merge)
vào
bối cảnh nghiên cứu và trở thành thành viên được chấp
nhận hoàn toàn của bối cảnh
nghiên cứu), viết fieldnote, làm việc với nhật ký và mã
hóa các phỏng vấn lẫn các ghi chép. Ralph Bolton đã hỏi 34 nhà nhân
học về công việc viết fieldnote và nhận được câu trả lời là mất đâu
đó từ 1,5 đến 7 tiếng
mỗi ngày cho việc viết lách (1984:132). (Nếu bạn ghi âm thì còn mất thời gian hơn vì
phải ngồi nghe đoạn ghi âm và chép lại (transcribe))
Mỗi khi thấy ngán tận cổ về công việc viết fieldnote thì bạn có
thể tự động viên bản thân bằng cách nghĩ rằng, thôi, ráng mà viết
đi, vì “viết fieldnote sẽ khuyến
khích người nghiên cứu quan sát chính xác và có hệ thống hơn, xem xét cả
những việc bình thường lẫn những việc nổi bật, và tham gia vào các hoạt
động và mối quan tâm của người khác cũng giống như là của chính mình” (Emerson và cộng sự, 1995:xv). Ngoài ra, “quá trình ghi chép (inscribing), viết fieldnotes,
giúp người nghiên cứu bước đầu hiểu những gì họ quan sát và, do đó, cho phép họ tham gia với những cách thức mới, lắng nghe hơn, và quan sát với một lăng
kính mới” (Emerson
và cộng sự,
1995).
Có thể chia ra làm 4 kiểu fieldnote:
sổ tay ghi chép nhanh (tốc ký?) (jotting), nhật ký
(diary), nhật trình (log), và fieldnote.
Jotting
Sổ tay ghi chép
nhanh
(còn được
Roger Sanjek gọi là scratch notes (1990:96)) là những gì bạn có được trong
suốt một ngày. Trí nhớ con người là công cụ lưu trữ tồi, đặc biệt là
những chi tiết -
điều này sẽ giúp phân biệt được đâu là một nghiên cứu tốt và bình
thường. Hãy luôn mang sổ tay bên mình và không cần phải ghi chép toàn
bộ mà chỉ cần vài chữ để giúp bạn nhớ lại sự việc khi bạn không
có thời gian ghi chép trong khi đang quan sát sự kiện hoặc lắng nghe
người cung cấp thông tin.
Ghi nhanh (jotting) không
chỉ là hoạt động ghi chép mà còn là tư duy (mindset). Nên học cách ghi nhanh các chi tiết
vẫn còn rõ ràng và dễ dàng chuyển thành các mô tả sinh động.
Đầu
tiên,
ghi nhanh các chi tiết mà bạn cảm thấy đó là thành phần then chốt
của bối cảnh quan sát hoặc tương tác.
Thứ
hai,
tránh đưa ra các tuyên bố mô tả đặc điểm những gì mọi người làm để dựa vào đó mà khái quát hóa.
Nhiều người nghiên cứu chưa có kinh nghiệm, lúc ban đầu, thường có xu
hướng ghi xuống những
từ ấn tượng, cố chấp có
thể
giúp họ đưa ra bản tóm tắt
đánh giá sau này, hơn là viết những mô tả chi tiết và có kết cấu.
Thứ
ba,
ghi nhanh những chi tiết cảm nhận cụ thể về hành động và câu chuyện.
Người nghiên cứu lưu ý những chi tiết cụ thể của đời sống hàng ngày thể hiện hành vi của con người hơn
là chỉ nói
về hành vi đó.
Bằng cách kết hợp những chi tiết đó, ghi nhanh có thể cung cấp các
từ, cụm từ hoặc hội thoại thực tế mà người nghiên cứu muốn giữ
càng chính xác càng tốt. Ví dụ, thay vì mô tả cảm xúc bùng phát
đơn giản là [dùng] “từ
ngữ giận dữ” thì người nghiên cứu
có thể ghi nhanh các từ thực
tế đã được
nói ra với các chi
tiết gợi lên cảm
giác như cử chỉ và biểu hiện nét mặt cho thấy người nói đang “giận
dữ”.
Thứ
tư,
ghi nhanh chi tiết thuộc về các giác quan mà bạn có thể dễ dàng quên
nhưng bạn cho là những quan sát then chốt về bối cảnh nghiên cứu. Mỗi
người nghiên cứu phải tìm hiểu được những loại chi tiết nào họ nhớ
nhất và ghi nhanh những đặc tính nào họ dễ dàng quên mất. Vì vậy,
mỗi người nghiên cứu sẽ tự phát triển kiểu ghi nhanh cho riêng mình
phản ánh thiên hướng hồi tưởng nổi trội của họ – có thể là nhìn
(visual), nghe (auditory) hay hành động (kinetic) – một số người thì ghi
nhanh màu sắc, hình dáng; một số khác ghi các cuộc đối thoại; một
số khác ghi nhận cử chỉ không lời như nét mặt, di chuyển. Thông qua
việc thử và sai, người nghiên cứu sẽ học được cách tốt nhất giúp họ hồi tưởng
các trải nghiệm khi họ ngồi xuống và viết fieldnote hoàn chỉnh.
Thứ
năm,
ghi nhanh có thể được dùng để thể hiện ấn tượng và cảm giác chung,
ngay cả khi người nghiên cứu không chắc về ý nghĩa/tầm quan trọng của
chúng vào lúc đó. Trong một số trường hợp, người nghiên cứu chỉ có
cảm giác mơ hồ về
việc làm thế nào và tại sao một
điều
nào đó lại có thể quan trọng. Những cảm giác này có thể là yếu tố then chốt trong tương lai có
thể giúp người nghiên cứu thấy được sự việc “khớp với nhau” như thế
nào trong mẫu hình có ý nghĩa.
Nhật ký
Fieldnote dựa trên
những quan sát về sau sẽ
là
nền tảng cơ bản trong các công bố của bạn. Nhưng đối với nhật ký
thì khác, nhật ký mang tính chất riêng tư. Đó là nơi để bạn trốn
vào khi mọi thứ dường như trở nên khó khăn, giúp bạn giải tỏa nỗi cô
đơn, sợ hãi và những tình cảm khác khiến cho công việc đi điền dã trở nên khó khăn.
Nhật ký ghi chép
theo trình tự thời gian việc bạn cảm thấy thế nào và bạn hiểu được
mối quan hệ giữa bạn với những người xung quanh như thế nào. Hãy cố
gắng dành khoảng
nửa giờ mỗi ngày để rút hết tâm hồn vào nhật ký. Sau này, khi phân
tích dữ liệu, nhật ký sẽ trở thành tài liệu quan trọng, nó sẽ cung
cấp thông tin cần cho bạn diễn giải fieldnote và giúp bạn nhận biết
được thành kiến cá nhân của mình.
Mở ngoặc cái, Franz
Boas (1858 – 1942) – nhà nhân học người Mỹ
gốc Đức và là người sáng lập Hiệp
hội Nhân học Mỹ (AAA) đã viết đâu 500 trang cho vị hôn thê
của mình, đính hôn năm 1883, 3 tuần sau thì đi thám
hiểm Bắc cực để nghiên
cứu về địa
lý học suốt 15 tháng; Bronisław
Malinowski (1884
– 1942) – nhà nhân học Anh gốc Ba Lan, cũng nhớ về vợ chưa cưới và xã hội châu Âu
khi đi Trobriand Islands trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
Nhật trình
Nhật trình ghi chép
về việc bạn lập kế hoạch sử dụng thời gian như thế nào, bạn đã
thực sự sử dụng thời gian như thế nào cũng như bạn chi tiêu bao nhiêu
tiền.
Có
thể tạo nhật trình trên máy tính nhưng có lẽ tốt hơn là dùng sổ tay
để có thể dễ dàng liếc qua kế hoạch của bạn. Mỗi ngày đi điền dã nên dành 2 trang – 1 trang bên
trái liệt kê những việc bạn lên kế
hoạch làm trong ngày, và trang còn lại là những gì bạn thực sự thực hiện.
Ngày đầu tiên hoặc
ngày thứ hai, có lẽ bạn chỉ sử dụng trang bên phải, ghi lại bạn đi
đâu, gặp ai và tiêu bao nhiêu tiền. Một số người mang nhật trình theo
họ mọi lúc, một số khác thì chỉ ghi nhanh tên của người mà họ gặp
hoặc phỏng vấn rồi điền
thông tin khi họ viết fieldnote vào buổi tối.
Nên tạo hồ sơ cho
những người mà bạn đã gặp/phỏng vấn, sẽ giúp bạn dễ dàng nhớ họ
và trước khi bạn phỏng vấn lần hai hay lần ba thì lướt qua thông tin
về họ trong hồ sơ đã tạo. Vài phút trước khi bắt đầu phỏng vấn,
nhắc lại vài điều chứng tỏ bạn nhớ về họ sẽ giúp bạn nhiều đấy.
Ghi nhanh mỗi khi bạn
ăn và bạn ăn gì,
ăn với ai và dùng bao nhiều tiền cho mỗi bữa ăn. Bạn sẽ ngạc nhiên
về những gì mà bạn học
được
từ đó.
Sau vài ngày, bạn
sẽ bắt đầu sử dụng trang bên trái. Qua vài ngày, bạn sẽ có nhiều
điều cần phải tìm hiểu nhưng chưa giải quyết được ngay. Hãy viết
những điều đó vào sổ tay ghi chép nhanh (jotting) hoặc nhật trình. Khi viết
fieldnote, nghĩ về việc bạn cần gặp ai, hay cần quan sát điều gì,
những điều mà bạn tự hỏi trong ngày đi điền dã. Ngay lập tức, hãy mở nhật
trình và cam kết với bản thân là sẽ tìm hiểu mỗi điều tại một thời điểm cụ thể vào ngày cụ thể. Nếu việc tìm
hiểu đòi hỏi phải nói chuyện với người nào đó, hãy ghi tên người
đó vào nhật trình. Nếu bạn không biết phải nói chuyện với ai, hãy
ghi tên người mà bạn nghĩ họ có thể giúp bạn nói chuyện với đúng
người.
Không chỉ là bạn sử
dụng thời gian hiệu quả, mà quá trình xây dựng nhật trình thúc đẩy
bạn suy nghĩ
nghiêm túc về các câu hỏi bạn thật sự muốn tìm câu trả lời thông qua nghiên cứu của mình và dữ
liệu bạn thực sự cần.
Fieldnote tốt không
phụ thuộc vào sự đúng giờ của người cung cấp thông tin hay khả năng
hoàn thành hết tất cả những thứ mà bạn muốn làm. Nó phụ thuộc
vào sự làm việc có hệ thống của bạn qua thời gian.
Khi người cung cấp
thông tin không xuất hiện trong cuộc hẹn, bạn có thể xem xét xem có
cần dữ liệu này hay không, nếu vẫn cần, hãy hẹn gặp họ ở lần khác
và ghi vào trang bên trái của nhật trình. Nếu như số bạn vẫn không
may, hãy quyết định xem có nên dành thời gian để theo đuổi cuộc hẹn
hoặc dữ liệu này hay không. Nhật trình sẽ cho bạn biết thời gian bạn
dành cho việc này là bao nhiêu và giúp bạn ra quyết định dễ dàng
hơn.
Fieldnote
Bây giờ tới phần
ngán nhất rồi nhé, thử tưởng tượng xem bạn đã dành cả ngày rong
ruổi trên đường (chợ, siêu
thị…)
để phỏng vấn mọi người, gặp gỡ và ghi nhận các hành vi, sự kiện thì thật là khó
khăn khi phải ngồi xuống viết fieldnote về những việc bạn đã trải qua
rồi. Nếu đến bước này mà thấy
oải thì ngó lên đọc lại 2 trích dẫn ở trên để mà có động lực làm
tiếp.
Có thể chia fieldnote thành 3 loại:
methodological note, descriptive note và analytic note.
Methodological
note (M)
M xử lý vấn đề kỹ thuật thu thập dữ liệu. M cũng là bằng chứng về sự trưởng thành
của riêng bạn nếu bạn ví mình
như
là công cụ thu thập dữ liệu. Việc thu thập dữ liệu luôn luôn vụng về
khi bạn bắt đầu đi điền dã,
nhưng càng ngày sẽ càng dễ
dàng hơn khi bạn trở nên thoải mái hơn trong môi trường mới. Bằng cách ghi M, trong suốt quá trình điều chỉnh,
bạn sẽ khéo léo hơn qua
những gì học được về việc thực hiện đi điền dã. Ví dụ, trong một nền văn hóa
nào đó, việc hẹn giờ gặp “khoảng
7 giờ tối” thì có nghĩa là 8 giờ tối (1
tiếng sau 7 giờ tối) mới thực sự gặp nhau.
M sẽ phải thực hiện
cùng với việc tiến hành tìm hiểu thực địa. Bạn sẽ còn muốn ghi M
khi nào bạn vẫn
còn làm những điều ngu ngốc phá vỡ quy tắc văn hóa (cultural norm). Khi nào bạn cảm thấy xấu hổ vì
mình đã làm chưa đúng hoặc theo
cách
ngốc nghếch, bạn có thể muốn ghi lại những cảm giác đó vào nhật
ký mà không ai có thể đọc được; nhưng bạn cũng sẽ không muốn bỏ lỡ
cơ hội để ghi vào M tình huống đó.
Descriptive
note (D)
D là “linh hồn” của
việc đi điền dã.
Hầu hết các fieldnote
là mô tả và từ 2 nguồn: nhìn và nghe. Có 2 chiến lược ghi D:
1. Ghi chép những sự việc
(mà người nghiên cứu cho là) nổi trội
Môi trường xã hội là một “sự kiện đa kênh” (“multichanneled event”) thì việc ghi chép “về bản
chất, là
tuyến tính, và chỉ
có thể xử lý một kênh tại một
thời điểm, vì vậy phải lấy và lựa
chọn một trong những dấu
hiệu sẵn có
để làm đại
diện” (Walker,
1986:211).
Do đó, theo chiến lược này,
khi ngồi xuống ghi lại fieldnote, bạn
có thể bắt đầu bằng cách mô tả bất cứ điều quan sát nào mà bạn cho là đáng chú ý nhất, thú vị nhất,
hoặc đề cập nhiều nhất.
Bạn có thể lúc đầu
phải dựa vào kinh nghiệm và trực giác của mình để lựa chọn các
sự kiện/cố đáng chú ý ra khỏi
dòng chảy của các hoạt động đang diễn ra.
Tuy nhiên, để
sử
dụng các
phản ứng cá nhân có hiệu quả,
đòi hỏi phải cẩn thận và phản hồi (reflection). Nhiều người nghiên cứu mới
vào nghề ghi nhận những sự việc như vậy, nhưng
có xu hướng đánh giá hành động của người khác trong bối cảnh nghiên cứu, tốt hoặc xấu, bằng tiêu chuẩn và giá trị riêng của họ
chứ không phải là của người khác.
Tuy nhiên, người nghiên cứu không nên quá cực đoan và cố gắng
kiểm soát các phản ứng mạnh mẽ của mình
bằng cách từ chối hoặc chỉ đơn giản là bằng cách bỏ qua chúng không ghi chép
vào fieldnote. Thay vào đó,
người nghiên cứu có thể ghi
nhận cảm
xúc của mình, sau đó quay lại và
sử dụng kinh nghiệm này để làm gia tăng
sự nhạy cảm của mình đối với những
kinh nghiệm của người khác trong bối
cảnh nghiên cứu.
Và những trường hợp “lệch” (thường là theo 2 cách) như vậy thường
dẫn đến dữ liệu nổi bật.
(1) Khi lần đầu tiên bước vào không
gian nghiên cứu, bạn xác định các đặc điểm quan trọng từ ấn tượng đầu
tiên và phản ứng cá nhân. Việc nhận biết trường hợp “lệch” như vậy có thể từ
nền tảng kiến thức/văn hóa của riêng bạn, nó ảnh
hưởng đến những gì mà bạn coi
là nổi bật. Chẳng hạn, văn hóa xếp hàng, cuối
chào gập người 90 độ của người Nhật thu hút sự chú ý của nhiều
người.
(2) Tuy nhiên, với sự tham gia sâu hơn vào thế giới xã hội địa phương, bạn sẽ trở nên nhạy cảm
hơn đối với những mối quan tâm và quan điểm của những người trong bối cảnh
nghiên cứu. Người nghiên cứu ngày càng hiểu cách mọi người định hình
trước thế
giới của họ bằng
ngôn ngữ riêng của họ cho các mục
đích và các kế
hoạch của
riêng họ. Người
nghiên cứu nhạy cảm sẽ dựa
vào phản ứng của riêng mình để xác
định các vấn đề có
thể quan trọng đối với những người trong bối cảnh
nghiên cứu –
những người này có đặc quyền
là mô
tả và phân loại dựa trên gốc nhìn của “người trong cuộc” so với góc nhìn “người ngoài cuộc” của người
nghiên cứu. Lúc
này, kiến thức và hiểu biết của bạn có thể đã được phát triển tại chỗ
qua thời gian đi điền dã, cho nên bạn sẽ cho rằng một trường hợp nào đó “lệch” so với những sự việc khác đã quan sát trước
đó. Đây là một sự xuất hiện
mong muốn vì nó có thể đóng góp vào sự phát triển của lý thuyết (Katz, 1983).
Cũng nên lưu ý là việc ghi
chép liên
quan đến quá
trình chủ động diễn giải và làm
cho có ý nghĩa: lưu
ý và viết xuống một số việc “có ý nghĩa” (significant), lưu ý nhưng bỏ qua những việc khác “không có ý nghĩa”, và thậm chí bỏ
sót những
việc có thể có mang ý nghĩa. Kết quả là, những
sự kiện tương
tự (thậm
chí là “cùng” một sự kiện) có thể được mô tả cho các mục đích khác nhau, với sự nhạy cảm và mối quan tâm khác nhau.
Tóm lại, theo chiến lược
này, người nghiên cứu thường xuyên chọn để
ghi lại một quan sát đặc biệt bởi
vì nó nổi bật. Quan sát thường nổi bật vì
chúng “lệch” - hoặc khi so sánh với những sự việc khác hoặc đối với kiến thức và niềm tin hiện
có người nghiên cứu. Dù bằng cách nào, kiến thức nền tảng của
người nghiên cứu cũng ảnh hưởng đến việc trường hợp nào được lựa chọn
để ghi lại.
2. Ghi chép toàn diện
Một chiến lược khác để ghi
chép là chiến lược mô tả có hệ
thống và toàn diện tất cả mọi thứ
đã xảy ra trong một khoảng thời gian
cụ thể, giống như một chuyến đi duy nhất đến bối cảnh nghiên
cứu.
Có nhiều cách ghi theo
chiến lược toàn diện.
Có người bắt đầu với một danh
sách tổng
quát các mối quan tâm, chẳng hạn của Lofland và Lofland (1984:48) với các câu hỏi chuẩn bị trước: Ông ta là ai? Ông
ta làm nghề gì? Bạn nghĩ điều gì khi bà ta nói như vậy? Thế rồi họ
phản ứng ra sao? Tại sao bà ấy lại làm như thế? Chuyện gì xảy ra
sau....? Điều gì sẽ tới nếu như...? v.v.
Hoặc Spradley (1980:78) cũng
có danh sách tương tự: Không gian (địa điểm vật lý), Người tham gia (người
có liên quan), Hoạt động (chuỗi các hành động có liên quan mà mọi
người thực hiện), Vật thể (đồ vật hiện diện), Hành động (các hành
động riêng lẻ mà mọi người thực hiện), Sự kiện (chuỗi các hoạt
động có liên quan mà mọi người thực hiện), Thời gian (chuỗi sắp xếp
thứ tự theo thời gian), Mục đích (điều mà mọi người đang cố gắng đạt
được), Cảm giác (cảm xúc được cảm nhận và thể hiện).
Một cách khác nữa là ghi chép theo
thời gian từ đầu đến cuối (Emerson và cộng sự, 1995). Nhiều
bối cảnh xã hội có thời gian biểu đặc trưng
(Hammersley và Atkinson,
1983) và đó cũng là một gợi ý để ghi chép theo khung
thời gian đó. Ghi chép theo
chuỗi sự kiện luôn lặp lại có thể hữu
ích nhiều hơn khi tìm hiểu ý
nghĩa của nó đối với các thành viên (Emerson, 1983).
Phương pháp ghi chép toàn diện
cũng có lợi thế là buộc người nghiên cứu phải tái tạo các sự kiện theo thứ tự mà
chúng thực sự xảy ra. Điều này có
thể giúp hỗ trợ trong việc nhớ
lại các chi tiết mà nếu không thì có thể sẽ bị lãng quên.
Một điều cần lưu ý ở đây là kiến thức
ngầm (tacit knowledge – tức là những kiến thức tự hiểu mà không
cần nói ra) ảnh hưởng đến việc ghi
chép khi sử dụng phương pháp
toàn diện như thế nào? Khi kể lại toàn bộ các phân
đoạn thời gian tại bối cảnh nghiên cứu, người nghiên cứu thường không mô tả các sự kiện có thể dường như đã quá nhàm chán để
mà ghi lại. Tuy nhiên, những dữ liệu nhàm
chán này sau đó có thể trở nên
có giá trị, bởi vì chúng có thể
cung cấp sự tương phản cho phép
người nghiên cứu xác định các trường hợp
“lệch”. Mà cho dù có hoặc không được xác định như vậy, các
dữ liệu này cũng sẽ tạo nên kiến
thức nền tảng giúp hướng dẫn việc ghi
chép tiếp theo. Tự nhận thức theo
phương pháp nghiên cứu sẽ gia tăng, vì người nghiên
cứu có thể làm cho kiến thức ngầm
của họ trở nên rõ ràng.
Ngoài ra, khi đi điền dã,
bạn có thể mô tả những tương tác mà nó “đã không xảy ra” (theo suy
nghĩ của bạn) và sẽ rất hữu ích khi so sánh với những gì đã xảy
ra, vì nó cho phép người nghiên cứu phát triển các tiêu chuẩn nhằm
định nghĩa một sự kiện trong bối cảnh xã hội nào đó.
Người nghiên cứu cũng
cần vượt qua những phản ứng cá nhân để hướng tới cởi mở (một cách nhạy cảm) với những điều mà những người trong bối cảnh nghiên cứu trải nghiệm và phản
ứng trước những điều mà họ cho là “có ý
nghĩa” hoặc “quan trọng”. Các loại hành động, tương tác, và các
sự kiện gây chú ý đối với người dân một cách thường xuyên trong bối cảnh nghiên cứu có thể cung
cấp manh mối cho những mối quan tâm này. Người nghiên cứu xem xét trong những loại hành
động, tương tác, sự kiện đó, loại nào có ý nghĩa đối với đối
tượng nghiên cứu.
Sau đây là một số hướng
dẫn tổng quát đối với nội dung mô tả:
- Mô tả bối cảnh vật lý.
- Mô tả môi trường xã hội và cách thức mà những người tham gia tương tác bên trong bối cảnh nghiên cứu. Có thể bao gồm các mẫu hình tương tác, tần suất tương tác, chiều hướng của mẫu hình giao tiếp (bao gồm cả giao tiếp phi ngôn ngữ), và các mẫu hình ra quyết định.
- Mô tả những người tham gia và vai trò của họ trong bối cảnh nghiên cứu.
- Mô tả, tốt nhất có thể, ý nghĩa của những điều được quan sát từ quan điểm của những người tham gia.
- Ghi lại chính xác câu nói hoặc tương đối chính xác các ý kiến có liên quan trực tiếp đến mục đích nghiên cứu.
- Mô tả bất kỳ tác động nào mà bạn có thể có tác động lên tình huống bạn quan sát (quan trọng!).
Analytic
note (A)
A sẽ
được viết ít hơn 2 loại còn lại. A
là nơi bạn trình bày ý tưởng của mình về việc bạn nghĩ về vấn đề mà bạn đang nghiên cứu được
tổ chức như thế nào, ví
dụ, nên hiểu
rằng khi hẹn “khoảng 7 giờ tối” là phải đi đến cuộc
hẹn sau 1 tiếng.
A là fieldnote tốn nhiều thời gian và công
sức và có thể kéo dài vài trang giấy. Nó thường là nền tảng cho các bài
nghiên cứu được công bố, hoặc là các chương trong luận án hay sách. Nó là kết quả của sự hiểu biết của
bạn và sẽ đi cùng với, thông qua việc tổ chức và làm việc của bạn,
D và M trong suốt khoảng thời gian nghiên cứu. Không nên kỳ vọng sẽ viết được
rất nhiều A, nhưng hãy viết chúng thường xuyên, thậm chí (đặc biệt
là) sau khi bạn không còn ở bối
cảnh
nghiên cứu nữa.
Sau đây là một số hướng
dẫn tổng quát đối với nội dung phân tích/phản hồi:
- Lưu ý những ý tưởng, ấn tượng, suy nghĩ, và/hoặc bất kỳ lời nhận xét (criticisms) nào của bạn về những gì bạn quan sát.
- Bao gồm bất kỳ câu hỏi chưa trả lời phát sinh từ việc phân tích các dữ liệu quan sát cũng như những suy nghĩ mà bạn có thể có liên quan đến bất kỳ quan sát nào trong tương lai.
- Làm rõ các ý tưởng và/hoặc sửa chữa sai lầm và hiểu lầm trong các phần khác của fieldnotes.
- Bao gồm các thấu hiểu về những gì bạn đã và đang quan sát và suy đoán về việc tại sao bạn tin rằng một hiện tượng cụ thể nào đó xảy ra.
Chú ý: Nên phân tích fieldnote của bạn khi chúng đang được viết và trong khi bạn đang tiến hành quan sát. Điều
này
quan trọng bởi ít nhất hai lý do. Đầu tiên, phân tích sơ bộ thúc đẩy tự phản hồi
(self-reflection), và tự phản hồi là rất quan trọng cho sự hiểu biết (understanding)
trong bất kỳ nghiên cứu
nào. Thứ hai, phân
tích sơ bộ sẽ phát hiện các chủ đề mới
nổi
lên. Xác
định chủ đề mới nổi trong khi quan
sát cho phép bạn chuyển sự chú ý
theo những cách mà có thể thúc đẩy
cuộc nghiên cứu phát triển hơn.
Đặc điểm của fieldnote:
- Chính xác. Bạn chỉ có một cơ hội để quan sát một thời điểm cụ thể, vì vậy hãy luyện tập ghi chép trước khi bạn tiến hành quan sát. Điều này sẽ giúp bạn phát triển phong cách riêng của mình khi ghi chép một cách nhanh chóng và chính xác.
- Có tổ chức. Cùng lúc vừa ghi chép chính xác lại vừa quan sát có thể sẽ khó khăn. Do đó, điều quan trọng là nên có kế hoạch trước bạn sẽ ghi chép công việc nghiên cứu thông qua quan sát của bạn như thế nào - ví dụ, theo trình tự thời gian hay theo tình huống cụ thể. Fieldnote không được tổ chức tốt sẽ gây khó khăn khi diễn giải phát hiện của bạn.
- Có tính mô tả. Sử dụng những từ có tính mô tả để ghi nhận những gì bạn quan sát. Ví dụ, thay vì nói rằng một lớp học “thoải mái”, thì có thể nói lớp học có ánh sáng nhẹ và ghế đệm có thể di chuyển xung quanh lớp học được. Có tính mô tả có nghĩa là cung cấp đầy đủ chi tiết thực tế, do đó, bạn không cần phải ngồi đoán mò bạn đã muốn nói về cái gì khi viết báo cáo đi điền dã.
- Tập trung vào vấn đề nghiên cứu. Do không thể ghi tất cả mọi thứ bạn quan sát, nên chỉ bao gồm chi tiết tốt nhất về các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu và các cấu trúc lý thuyết làm cơ sở nghiên cứu của bạn; tránh làm lộn xộn ghi chú của bạn với thông tin không liên quan.
- Ghi lại những thấu hiểu (insights) và suy nghĩ. Khi quan sát, hãy suy nghĩ về ý nghĩa cốt lõi của những gì bạn quan sát và ghi lại những suy nghĩ và ý tưởng đó. Thực hiện như vậy sẽ giúp bạn sau đó muốn đặt câu hỏi hoặc muốn làm rõ từ người tham gia. Để tránh nhầm lẫn, những ý kiến nên được ghi trong phần phản hồi riêng biệt của fieldnote và không gộp chung với phần mô tả của fieldnote.
Một số lưu ý và gợi ý
khác có thể sẽ hữu ích cho bạn khi đi điền dã và viết fieldnote:
·
Người nghiên cứu nên ghi chép những ấn tượng ban đầu của mình. Tuy nhiên, nếu bạn đã bỏ lỡ cơ hội này thì vẫn có thể gián tiếp nhớ lại ấn tượng đầu tiên của mình bằng cách quan sát bất kỳ người mới đến nào đến bối cảnh nghiên cứu, đặc biệt chú ý đến cách họ tìm hiểu, thích ứng và phản ứng.
Người nghiên cứu nên ghi chép những ấn tượng ban đầu của mình. Tuy nhiên, nếu bạn đã bỏ lỡ cơ hội này thì vẫn có thể gián tiếp nhớ lại ấn tượng đầu tiên của mình bằng cách quan sát bất kỳ người mới đến nào đến bối cảnh nghiên cứu, đặc biệt chú ý đến cách họ tìm hiểu, thích ứng và phản ứng.
Người
nghiên cứu không
thể tìm
hiểu mối quan tâm và ý nghĩa
của những người khác cùng một lúc,
mà thực hiện việc tìm hiểu trong một quá trình liên tục, trong đó người
nghiên cứu xây dựng sự
thấu hiểu
và hiểu biết mới dựa trên sự
thấu hiểu
và hiểu biết trước đó. Vì vậy, bạn nên ghi chép các
quá trình và giai đoạn đầu
mới xuất hiện hơn
là cố gắng tái tạo lại chúng
sau này khi đưa ra diễn giải cuối cùng
nào đó về
ý nghĩa
và nội dung của
chúng.
Cân nhắc tương tự khi kiểm tra “các
phát
hiện” (“findings”) của người
nghiên cứu về đối tượng nghiên cứu và các hoạt động thường xuyên của họ. Ghi
chép về các hoạt động này nên được thực hiện càng gần thời
điểm diễn ra khi có thể nhằm duy trì tính chất đặc trưng và bất ngờ
của chúng trước khuynh hướng đồng
nhất hóa khi hồi tưởng.
Do đó, hãy tạo thói quen dành thời gian nào đó
mỗi ngày cho việc viết fieldnote.
Sự hiện diện của người nghiên cứu trong bối
cảnh nghiên cứu chắc chắn có những hàm ý và mang
lại kết/hậu
quả đối với những gì đang diễn ra, do người nghiên
cứu khi đi
điền dã nhất
thiết phải tương tác với, và do đó, có một số tác động đến đối
tượng nghiên cứu. Thêm vào đó, lúc này, quan điểm của người
nghiên cứu “được đan xen với hiện tượng mà
không có những đặc điểm khách
quan độc lập với quan điểm
và phương pháp của người quan sát”
(Mishler,
1979:10).
“Sự hiện diện có tạo ra tác động” (“consequential presence”), thường gắn với “tác động lại” (“reactive effects”) (có nghĩa là, sự tham gia của người
nghiên cứu có tác động đến cách trò chuyện và ứng xử của những người được nghiên cứu), không nên xem là
gây “ô nhiễm” cho
những việc
đang được
quan sát và tìm
hiểu mà thay vào đó,
nên xem những
tác động này là nguồn của
việc tìm hiểu và quan sát (Clarke, 1975:99). Thay
vì coi “tác động trở lại” là một khiếm khuyết cần được cẩn
thận kiểm
soát hoặc
xóa bỏ hoàn toàn, bạn nên nhạy cảm và nhận
biết nhanh về việc người
khác nhìn mình và đối xử với mình như thế nào.
Người nghiên cứu ít nhất vẫn ở vị trí là một người xa lạ ở
chừng mực nào đó đối với thế giới được nghiên cứu, mặc dù chia sẻ
rất nhiều khía cạnh cuộc sống hàng ngày với người khác. Tuy nhiên,
duy trì vai trò là người xa lạ cũng khá khó khăn. Người nghiên cứu
có thể phản ứng trước những khó khăn này theo nhiều cách khác nhau.
Một số cố gắng quan sát với thái độ tách biệt, thậm chí đối
với những người mà họ thích và tôn trọng, tìm kiếm cách để
giữ sự cam kết nghiên cứu ở mức độ tách biệt nào đó với những
ràng buộc cá nhân.
Một số khác không thể lúc nào cũng giữ được vị trí xa cách đối
với những người hoặc sự kiện hấp dẫn đối với họ. Người nghiên cứu lúc
này sẽ dừng lại, hoặc vô thức hoặc có ý thức, bằng cách không quan
sát và/hoặc viết fieldnote (có thể ghi chép một cách kín đáo hoặc
công khai) về những sự việc nằm trong mục tiêu nghiên cứu của họ trong
khi vẫn không giữ khoảng cách với những sự việc khác. Chẳng hạn, khi
sống trong một ngôi làng trong thời gian dài, người nghiên cứu có thể
có mối quan hệ thân thiết hàng ngày như hàng xóm hoặc thậm chí như
một thành viên trong gia đình. Trong những dịp này, người nghiên cứu
có thể tham gia “một cách tự nhiên” – không ghi chép hoặc phân tích –
cuộc sống xã hội đang tiếp diễn. Nhưng trong những dịp khác, người
nghiên cứu vẫn tham gia trong khung cảnh địa phương nhằm quan sát và thu
thập dữ liệu, ghi chép và cuối cùng biến đổi mớ dữ liệu và sắc
thái của cuộc sống ở đó. Theo cách hiểu này, chúng ta có thể nói
sự xa lạ của người nghiên cứu được tạo ra và duy trì chính xác bằng
cách viết fieldnotes; những fieldnotes này phản hồi ánh và đạt được
sự gần gũi về mặt xã hội nhưng vẫn giữ được vị trí tách biệt nếu
xét về mặt trải nghiệm.
Một số khác cũng có thể quyết định rằng các mối quan hệ mà họ
thiết lập tại bối cảnh nghiên cứu có giá trị hơn và lâu dài hơn bất
kỳ sản phẩm nghiên cứu nào, và cuối cùng họ có thể họ dừng dự án
nghiên cứu.
Sớm cân nhắc xem sau này bạn muốn sử dụng
thông tin như thế
nào cũng quan trọng. Bạn sẽ lấy lại thông tin từ những
ghi chép như thế
nào? Ý tưởng của Schatzman và
Strauss về các gói ghi chú là một
trong những cách có thể quản lý tài liệu. Khối lượng lớn fieldnotes thường đòi
hỏi một số loại từ khóa hoặc bản mục lục chủ đề nếu muốn dễ dàng tìm
kiếm. Ngoài ra, một số cách khác như tóm tắt hàng tuần hoặc hàng tháng có thể
hữu ích.
Khi ghi lại các tài liệu đã đọc, điều
quan trọng nên sắp xếp sao cho có thể dễ dàng lấy lại khi muốn dùng các
trích dẫn và xây dựng tài liệu tham khảo (bibliography).
Nên nhất quán khi ghi chép, chẳng
hạn như dùng “” để ghi chính xác lời nói/trích dẫn hay ‘’ dùng để
ghi lại những lời nói/trích dẫn mà mình không chắn chắc, hay như làm
rõ đâu là từ ngữ của chính bạn, đâu là của người khác, và đâu là
từ ngữ mà bạn đọc và diễn giải lại (paraphrase).
Tạo
nhiều ghi chú nhỏ hơn là một bài luận dài.
Nên
viết lên máy tính và tạo nhiều files riêng biệt – mỗi ngày ghi chép
vào một file riêng – hơn là viết kết hợp chúng lại vào cùng một file
ngày này sang ngày khác.
Đôi khi, tất cả điều bạn cần làm là in
fieldnotes ra, tô tô vẽ vẽ, và trò chuyện với chính mình hoặc với người
khác.
Sở hữu
một bức
tường lớn
cũng quan trọng đấy, vì có
thể bạn cần rất nhiều không gian trên tường để diễn đạt ý tưởng của
mình.
Tái
tạo lại không gian nghiên cứu bằng
hình ảnh - in hình ảnh
tại địa điểm nghiên cứu và những người tham gia rồi treo chúng lên tường, điều
này sẽ giúp đưa
tâm lẫn trí của bạn
quay trở
lại fieldsite.
Tìm đồng nghiệp/bạn bè để trò chuyện về
sự phân
tích của bạn và thực
hiện điều này thường xuyên – nó rất quan trọng. Không chỉ tìm một nhóm ghi
chép mà tạo một nhóm phân tích dữ
liệu!
Mang theo nhiều pin cho tất cả các thiết bị của bạn trong thời gian nghiên cứu thực địa.
Luôn mang
theo thiệt nhiều các miếng dán ghi chú (sticky
note)
với đủ màu sắc và kích cỡ khác
nhau.
Mang miếng dán ghi chú theo khắp mọi nơi. Viết ra những ý
tưởng và khái niệm vào miếng dán đó rồi sau đó khi bạn về
nhà, hãy dán lên tường. Sắp xếp lại tường của bạn mỗi khi khái niệm
hóa lại (re-conceptualize)
quá trình của bạn.
Tài liệu tham
khảo
1.
Emerson, R.
M., Fretz, R. I. and
Shaw, L. L. 1995. Writing Ethnographic Fieldnotes. London: The
University of Chicago Press.
2.
Newbury,
D. 2001. Diaries and Fieldnotes in the Research Process. Research Issues in Art Design and Media. [online] Available
at: <http://www.biad.bcu.ac.uk/research/rti/riadm/issue1/riadmissue1.pdf>
[Accessed 1 July 2014]
3.
University
of Southern California. Writing Field Notes. Organizing
Your Social Sciences Research Paper. [online] Available at: <http://libguides.usc.edu/content.php?pid=83009&sid=2559286> [Accessed 2 July 2014]
4.
University
of Washington. Field Notes: How to Take
Them, Code Them, Manage Them. [online] Available at: <http://courses.washington.edu/thesis/chapter_14.pdf>
[Accessed 2 July 2014]
5.
Wang, T.
2012. The tools we
use: Gahhhh, where is the killer qualitative analysis app?. Ethnography
Matters. [online] Available
at: <http://ethnographymatters.net/blog/2012/09/04/the-tools-we-use-gahhhh-where-is-the-killer-qualitative-analysis-app/> [Accessed 2 July 2014]
6.
Wolfinger, N. H. 2002. On Writing Fieldnotes: Collection Strategies and
Background Expectancies. Qualitative
Research. Vol. 2(I). p.85-95.
No comments:
Post a Comment